Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 74/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THAN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 74/2023/HS-ST NGÀY 23/05/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23/5/2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Lai Châu, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, thụ lý số 75/2023/TLST-HS ngày 24/4/2023, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2023/QĐXXST-HS ngày 11/5/2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: HÀ VĂN T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 14/3/2000, tại huyện T, tỉnh Lai Châu; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Bản N, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ đảng, chính quyền đoàn thể: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Con ông Hà Văn T, không xác định được năm sinh, (đã chết năm 2015) và bà Lò Thị T, sinh năm 1969; Gia đình bị cáo có 02 anh, em, bị cáo là con thứ hai; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 21/02/2023, tạm giam từ ngày 02/3/2023 tại Nhà tạm giữ Công an huyện T cho đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 09 giờ ngày 21/02/2023, Hà Văn T thuê xe của một người đàn ng không quen biết đi từ bản N, xã P, huyện T đến bản N1 xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu, mục đích tìm mua Heroine để sử dụng. Tại bản N1, T mua 12 gói Heroin của một người phụ nữ không rõ lai lịch với giá 300.000 đồng. Sau đó, T sử dụng hết 01 gói bằng hình thức chích. Số Heroine còn lại 11 gói, T cất giấu trong cạp quần để sử dụng dần. Đến 10 giờ 00 phút cùng ngày, tại bản N2, xã P, huyện T, Hà Văn T bị Công an huyện T phát hiện, bắt quả tang. Vật chứng thu giữ trong cạp quần bên trái T đang mặc 11 gói Heroine được gói bằng các mảnh giấy đa màu sắc.

Tại kết luận giám định số 17 ngày 21/02/2023 của người giám định tư pháp theo vụ việc Công an huyện T và kết luận giám định số 229/KL-KLGĐ, ngày 24/02/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: “11 gói chất bột màu trắng thu giữ của Hà Văn T có tổng khối lượng 0,49 gam; là ma túy, loại Heroine (Heroin)”.

Vật chứng của vụ án: 0,49 gam Heroine, đã trích gửi giám định 0,11 gam, còn lại 0,38 gam; 11 mảnh giấy đa màu sắc; 01 vỏ bì niêm phong ban đầu; vật chứng còn lại, hiện đang được bảo quản theo quy định.

Cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 24/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, truy tố bị cáo Hà Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/Bộ luật hình sự.

Quá trình điều, tra truy tố, bị cáo Hà Văn T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án về thời gian và địa điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hà Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Về hình phạt, đề nghị áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38/Bộ luật hình sự, đề nghị tuyên phạt bị cáo Hà Văn T mức án từ 18 đến 24 tháng tù. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung và miễn án phí HSST cho bị cáo.

Về vật chứng đề nghị áp dụng Điều 47/Bộ luật hình sự, Điều 106/Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu 0,38 gam Heroine còn lại; 11 mảnh giấy đa màu sắc; 01 vỏ bì niêm phong ban đầu của Hà Văn T để tiêu hủy.

Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Điều tra viên, Kiểm sát viên và những người tiến hành tố tụng khác đã thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử đối với vụ án theo quy định tại các Điều 17, Điều 19, Điều 20, Điều 34, Điều 36, Điều 37, Điều 41, Điều 42/Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đảm bảo đúng quy định của pháp luật.

[2]. Về hành vi phạm tội và cấu thành tội phạm: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 21/02/2023, tại bản N2, xã P, huyện T, Hà Văn T đang tàng trữ trái phép 11 gói Heroine có tổng khối lượng 0,49 gam với mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện T phát hiện bắt quả tang. Hành vi bị cáo Hà Văn T thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249/Bộ luật hình sự.

[3]. Về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Bị cáo Hà Văn T là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Ma tuý đang là nỗi nhức nhối trong đời sống xã hội, và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do đó m i hành vi phạm tội liên quan tới ma tuý cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

[4]. Về mục đích phạm tội của bị cáo: Bị cáo Hà Văn T là đối tượng nghiện chất ma túy, việc tàng trữ trái phép chất ma túy là để phục vụ nhu cầu nghiện chất ma túy của bản thân.

[5]. Về nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hà Văn T được sinh ra trong gia đình lao động, mặc dù có tuổi đời còn rất trẻ không chịu khó tu dưỡng rèn luyện mà lại ăn chơi đua đòi và bị nghiện chất ma túy. Để có ma túy phục vụ nhu cầu bất hợp pháp của mình bị cáo đã bất chấp quy định của pháp luật để thực hiện hành vi phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Như vậy nội dung Cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Than Uyên truy tố hành vi phạm tội và đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ cần được chấp nhận. Cần có một mức án tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo, cai nghiện trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

Tuy nhiên quá trình điều tra, truy tố, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống tại địa phương có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn, khả năng nhận thức pháp luật còn có phần hạn chế. Vì vậy Hội đồng xét xử cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo Hà Văn T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52/Bộ luật hình sự.

[6]. Về vật chứng: Đối với 0,38 gam Heroine còn lại sau giám định của Hà Văn T là vật thuộc loại Nhà nước cấm lưu hành; 11 mảnh giấy đa màu sắc và 01 vỏ bì niêm phong ban đầu, xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[7]. Một số vấn đề liên quan trong vụ án:

Về nguồn gốc Heroine, Hà Văn T khai mua của một người phụ nữ không rõ lai lịch tại bản N1, xã P, huyện T, tỉnh Lai Châu nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Đối với người đàn ng T thuê chở xe đến bản N1 mua Heroine, T không biết lai lịch người đó nên không có căn cứ để điều tra làm rõ.

[8]. Về án phí: Bị cáo thuộc diện hộ nghèo, tại phiên tòa có đề nghị được miễn án phí nên sẽ được miễn án phí HSST.

[9]. Về biện pháp ngăn chặn: Cần tiếp tục áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 khoản 5 Điều 249; Điều 38, điểm c khoản 1 Điều 47, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51/Bộ luật hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333/Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ khoản 1 Điều 12/Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hà Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hà Văn T 18 (mười tám) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 21/02/2023. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

3. Về vật chứng: Tịch thu 0,38 gam Heroine còn lại sau giám định của Hà Văn T, 11 mảnh giấy đa màu sắc và 01 vỏ bì niêm phong vật chứng ban đầu để tiêu hủy.

Các vật chứng nêu trên đang được bảo quản, lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự huyện T. Tình trạng, đặc điểm vật chứng như Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 25/4/2023 giữa Cơ quan CSĐT - Công an huyện T và Chi cục thi hành án dân sự huyện T.

4. Về án phí: Bị cáo Hà Văn T được miễn án phí HSST.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 74/2023/HS-ST

Số hiệu:74/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Than Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về