Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRÙNG KHÁNH, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 67/2021/HS-ST NGÀY 09/08/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 09 tháng 8 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh C xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lý số 64/2021/TLST - HS ngày 16 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2021/QĐXXST - HS ngày 27 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Nông Công T; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam; Sinh ngày 05/02/199x tại C, T, C;

HKTT và chỗ ở: xóm P, xã C, huyện T, tỉnh C; Dân tộc: Tày; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Thợ mộc; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Nông Công Th (Sinh năm 196x) và bà Nông Thị C (Đã chết); Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Bị cáo Nông Công T bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh C tuyên phạt 07 năm tù về Tội mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 theo Bản án số 42/2013/HSST ngày 07/8/2013. Ngày 25/4/2018, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù và các quyết định khác của Bản án.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 20/5/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện T, tỉnh C. (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 09 giờ ngày 20 tháng 5 năm 2021, tổ tuần tra Công an xã Cao Thăng, huyện T, tỉnh C phối hợp với Đội điều tra tổng hợp Công an huyện T, tỉnh C tổ chức tuần tra tại địa bàn xóm P, xã C, huyện T, tỉnh C phát hiện có một đối tượng nghi vấn tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra đối tượng là Nông Công T, sinh năm 199x, trú tại xóm P, xã C, huyện T, tỉnh C. Quá trình kiểm tra, Nông Công T giao nộp 03 (ba) gói nhỏ (trong đó có 01 gói bằng ni lông màu trắng, 01 gói bằng giấy trắng kẻ ngang và 01 gói bằng giấy bạc màu trắng), bên trong đều chứa chất bột màu trắng. Theo T khai nhận 03 gói trên là ma túy (Heroine) của T mua về để sử dụng. Cơ quan chức năng đã tiến hành lập biên bản, thu giữ vật chứng và niêm phong theo đúng quy định của pháp luật.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T tiến hành mở niêm phong cân số chất bột màu trắng thu giữ đối với Nông Công T và trích mẫu gửi giám định. Kết quả cân có khối lượng 3,22g (Ba phẩy hai hai gam). Tại Kết luận giám định số 179/GĐMT ngày 30 tháng 5 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh C kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Heroine”.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Nông Công T khai nhận: Bản thân sử dụng ma túy, loại Heroine từ năm 2013, hình thức hít. Số ma túy thu giữ là của T mua về sử dụng cho bản thân. Nguồn gốc số ma túy thu giữ là khoảng 20 giờ ngày 19/5/2021, T lên thị trấn T, huyện T mục đích tìm mua ma túy. Khi đến đoạn đường đôi thị trấn T gặp một người đàn ông tên H (không rõ nhân thân lai lịch) ở gần khu vực Ban chỉ huy quân sự huyện T, T hỏi H và biết được H biết chỗ có ma túy bán, T đưa 2.000.000 đồng nhờ H mua ma túy. Khoảng 20 phút sau, H đưa cho T 01 gói ma túy, loại Heroine. Sau khi nhận được ma túy, T đem về nhà sử dụng.

Đối với các vật chứng vụ án gồm: Ma túy (loại Heroine), 01 mảnh giấy ni lông màu trắng, 01 mảnh giấy vệ sinh màu trắng, 01 mảnh giấy trắng, 01 mảnh giấy trắng kẻ ngang, 01 mảnh giấy bạc màu trắng được niêm phong trong 01 phong bì, mặt trước phong bì ghi “Vật chứng vụ Nông Công T, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 20/5/2021 tại P, C, T, C”. Mặt sau có chữ ký của của các thành phần tham gia và đóng 04 hình dấu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh C. Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã ban hành Quyết định chuyển vật chứng đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện T để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 66/CT-VKSTK ngày 14 tháng 7 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo Nông Công T ra trước Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh C để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nông Công T thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã phản ánh đúng hành vi phạm tội của bị cáo.

Kết thúc phần xét hỏi tại phiên tòa, Kiểm sát viên nhận định bị cáo có đầy đủ khả năng nhận thức về tác hại của ma túy nhưng vẫn cố tình phạm tội, căn cứ vào vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và nhân thân của bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm như bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nông Công T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51Bộ luật Hình sự đối với bị cáo T. Xử phạt bị cáo Nông Công T từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù - 03 (ba) năm tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, đề nghị: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì, mặt trước phong bì ghi “Vật chứng vụ Nông Công T, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 20/5/2021 tại P, C, T, C”. Mặt sau có chữ ký của của các thành phần tham gia và đóng 04 hình dấu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh C.

luật.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Khi được nói lời sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án nhẹ nhất để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Qua quá trình xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án, đúng như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát đã nêu và phù hợp với vật chứng đã thu được của bị cáo T. Cụ thể: Hồi 09 giờ ngày 20 tháng 5 năm 2021, tại xóm P, xã C, huyện T, tỉnh C, tổ tuần tra Công an xã Cao Thăng, huyện T, tỉnh C phối hợp với Đội điều tra tổng hợp Công an huyện T, tỉnh C phát hiện và bắt quả tang Nông Công T đang có hành vi tàng trữ 3,22g (Ba phẩy hai hai gam) ma túy, loại Heroine để sử dụng.

Do vậy, Hội đồng xét xử có đầy đủ căn cứ để kết tội bị cáo Nông Công T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo về tội danh và Điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được và biết rõ tác hại của ma túy, hiểu được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội ở địa phương và hiểu được các quy định của Nhà nước về nghiêm cấm mọi hành vi có liên quan đến ma túy; hành vi phạm tội của bị cáo còn thể hiện sự coi thường pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy, khối lượng ma túy thu giữ được của bị cáo là 3,22 g (ba phẩy hai hai gam) là tình tiết định khung quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc, là hình phạt tù có thời hạn mới tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để giáo dục, cải tạo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không có tiền án, tiền sự. Tuy nhiên, bị cáo T là người nghiện ma túy, có nhân thân xấu. Ngày 07/8/2013 bị cáo Nông Công T bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh C tuyên phạt 07 năm tù về Tội mua bán trái phép chất ma túy, quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 theo Bản án số 42/2013/HSST. Ngày 25/4/2018, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù và các quyết định khác của Bản án. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi tàng trữ ma túy của mình và tỏ ra ăn năn hối cải. Do đó, khi quyết định hình phạt cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo T; Tình tiết tăng nặng: bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nông Công T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và xử phạt bị cáo từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù - 03 (ba) năm tù. Xét thấy mức đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[5] Các nhận định khác:

Về nguồn gốc số Heroine thu giữ, Nông Công T khai nhờ một người đàn ông tên H (không rõ nhân thân lai lịch) mua giúp với số tiền 2.000.000 đồng. Quá trình điều tra, không xác định được nhân thân, lai lịch của người đàn ông tên H. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyệnT không đề nghị xử lý người có tên là H trong vụ án này là đúng theo quy định của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nguồn thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì, mặt trước phong bì ghi “Vật chứng vụ Nông Công T, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 20/5/2021 tại P, C, T, C”. Mặt sau có chữ ký của của các thành phần tham gia và đóng 04 hình dấu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh C.

[8] Về án phí: Bị cáo Nông Công T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nông Công T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Nông Công T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam ngày 20/5/2021;

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo T.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì, mặt trước phong bì ghi “Vật chứng vụ Nông Công T, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra ngày 20/5/2021 tại P, C, T, C”. Mặt sau có chữ ký của của các thành phần tham gia và đóng 04 hình dấu đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh C.

Xác nhận số vật chứng trên đã chuyển sang cơ quan Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T tại biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/7/2021.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm sung vào Ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo. Bị cáo Nông Công T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 67/2021/HS-ST

Số hiệu:67/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trùng Khánh - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về