Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 13/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 13/2024/HS-ST NGÀY 13/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 13 tháng 3 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 13/2024/TLST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2024/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:

Trần Văn S, sinh năm 1994, tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: Ấp P, xã V, huyện C, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 9/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Tấn N, sinh năm 1967 và bà Huỳnh Thị B, sinh năm 1969; có vợ là Võ Lâm Thùy T, sinh năm 1998 và 02 con, con lớn nhất sinh năm 2018, nhỏ nhất sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 15/12/2023 sau đó chuyển tạm giam đến nay - có mặt.

Người có quyền lợi, và nghĩa vụ liên quan: Anh Trần Minh Đ, sinh năm 1986; Địa chỉ: Thôn D, xã Đ, huyện T, tỉnh Đắk Nông - có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 15/12/2023, Trần Văn S gọi điện thoại cho người thanh niên không rõ nhân thân lai lịch (do một người nghiện khác giới thiệu) hỏi mua ma túy với số tiền 300.000 đồng thì được người này đồng ý và hẹn giao ma túy tại khu vực nghĩa địa thuộc tổ dân phố 8, thị trấn Kiến Đức. Sau đó, S điều khiển xe mô tô biển kiểm soát: 52L7: XXXX từ thôn D, xã Đ, huyện T đến điểm hẹn. Khi gặp nam thanh niên, S đưa cho người này số tiền 300.000 đồng và nhận lại một đoạn ống hút bằng nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu, bên trong có chứa ma túy. Sau đó, S bỏ ống hút có chứa ma túy vào trong túi áo 1 trước ngực bên trái rồi điều khiển xe đi về, khi đi đến đoạn đường nhựa gần bờ đập thuộc thôn Doãn Văn, xã Đắk R’ Tíh, huyện Tuy Đức thì bị Công an xã Đắk R’ Tíh phối hợp Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức phát hiện, bắt quả tang.

Vật chứng đã thu giữ gồm: 01 đoạn ống hút bằng nhựa màu trắng được hàn kín hai đầu bên trong chứa chất rắn dạng tỉnh thể màu trắng bên trong là ma túy; 01 xe mô tô nhãn hiệu OSTRICH, loại xe nữ, màu đỏ, biển kiểm soát: 52L7- XXXX và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme, màu đỏ đã qua sử dụng.

Tại Bản kết luận giám định số 480/KL-KTHS ngày 20/12/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: Chất rắn dạng tỉnh thể màu trắng đựng trong 01 (một) đoạn ống hút bằng nhựa màu trắng được niêm phong trong bì thư gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng mẫu là 0,3664 gam (hoàn lại sau giám định 0,3406 gam).

Tại Bản cáo trạng số 16/CT-VKS ngày 23 tháng 02 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức đã truy tố bị cáo Trần Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS, xử phạt bị cáo Trần Văn S từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của BLHS, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), đề nghị: Tịch thu, tiêu huỷ 0,3406 gam ma tuý là Methamphetamine (hoàn lại sau giám định); Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS, đề nghị: Tịch thu, bán sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme của bị cáo Trần Văn S. Căn cứ Điều 46 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Trần Minh Đ 01 xe mô tô nhãn hiệu OSTRICH, loại xe nữ, màu đỏ, biển kiểm soát 52L7- XXXX.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố và không trình bày lời bào chữa gì, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành 2 tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 12 giờ ngày 15/12/2023, tại đoạn đường nhựa gần bờ đập thuộc thôn Doãn Văn, xã Đắk R’ Tíh, huyện Tuy Đức; Công an xã Đắk R’ Tíh phối hợp Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức phát hiện và bắt quả tang Trần Văn S đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,3664 gam ma túy, là Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định:

“1.Người nào tàng trữ trái phép chất ma tuý mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

… c) Methamphetamin … có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…”.

Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đắk Nông truy tố bị cáo Trần Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm đến chế độ quản lý Nhà nước về việc cất giữ chất ma tuý; làm mất trật tự an ninh tại địa phương, gây nhiều hậu quả xấu cho bản thân, gia đình và xã hội. Vì vậy, bị cáo Trần Văn S phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo Trần Văn S đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS; HĐXX sẽ xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[6] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo thực hiện, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo, HĐXX xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[7] Việc Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức đề nghị mức án đối với bị cáo Trần Văn S là phù hợp, cần chấp nhận.

[8] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có tài sản gì nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Văn S.

[9] Về vật chứng của vụ án:

[9.1] Đối với 0,3406 gam ma tuý, là Methamphetamine (hoàn lại sau giám định) không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu huỷ.

[9.2] Đối với 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 52L7-XXXX qua điều tra xác định chiếc xe trên là của anh Trần Minh Đ; anh Đ mua lại chiếc xe trên của anh Trần Hoàng V từ năm 2010, do mua lâu năm nên đã làm mất giấy mua bán, ngoài ra do chưa có nhu cầu sang tên đổi chủ nên vẫn để giấy tờ đăng ký xe tên của anh V. Ngày 15/12/2023S mượn chiếc xe trên để đi làm sau đó đi mua ma túy; việc S sử dụng chiếc xe trên đi mua ma túy về sử dụng thì anh Đ không biết và S cũng không nói cho anh Đ biết. Việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức đã trả lại chiếc xe trên cho anh Đ là phù hợp cần cấp nhận.

[9.3] Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme của bị cáo Trần Văn S là vật chứng vụ án do bị cáo S dùng để liên hệ với người bán ma tuý nên cần tịch thu, sung ngân sách Nhà nước.

[10] Đối với người thanh niên (không xác định được nhân thân lai lịch) đã bán ma tuý cho S, do không có căn cứ để xác minh nên không đề cập xử lý theo quy định.

[11] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trần Văn S 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 15/12/2023.

2. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 BLHS; Điều 106 của BLTTHS:

2.1. Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức trả lại 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 52L7-XXXX cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Trần Minh Đ.

2.2. Tịch thu, tiêu huỷ 0,3406 gam ma túy, là Methamphetamine (hoàn lại sau giám định).

2.3. Tịch thu, sung ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme.

(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 23/02/2024 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Đức).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Văn S phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án phần liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 13/2024/HS-ST

Số hiệu:13/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về