Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 65/2021/HS-ST

TÒA ÁN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 65/2021/HS-ST NGÀY 28/07/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 7 năm 2021 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Đ, tỉnh N, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 62/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2021 đối với bị cáo:

Đào Xuân S, Sinh ngày 25 tháng 10 năm 1985 tại huyện Đ, tỉnh N. Nơi cư trú: Khối 02, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh N; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đào Văn Q, sinh năm 1949; con bà: Bùi Thị T, sinh năm 1956; Vợ: Nguyễn Thị Thu Th, sinh năm 1989 (Đã ly hôn); Con: Có 02 con, lớn sinh năm 2006, nhỏ sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 05/6/2021 đến nay, hiện đang tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Ông Đào Văn Q, sinh năm 1949; Trú tại: Khối 2, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh N. (Vắng mặt)

*Người làm chứng: ông Vũ Công T, sinh năm 1953; Trú tại: Khối 3, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh N. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 5 tháng 6 năm 2021, với mục đích tìm mua ma túy về để sử dụng, Đào Xuân S đi xe máy điện nhãn hiệu VENUS, màu trắng, mang biển kiểm soát 37MĐ2-xxxxx từ nhà ở của Đào Xuân S thuộc khối 2, thị trấn Đ đến khu vực cổng nhà thờ giáo thị trấn Đ thuộc khu vực khối 6, thị trấn Đ. Tại đây, S gặp một người đàn ông S không rõ tên, tuổi, địa chỉ, đặc điểm khoảng 40 tuổi, dáng người cao gầy, cao khoảng 1,6m, mặc áo cộc tối màu, đeo khẩu trang, đang đi bộ. Nhìn dáng người, S nghĩ người này cũng là người nghiện ma túy nên S nói “Anh có thể lấy giúp cho em một ít ma túy được không”, người này trả lời “lấy mấy”. S nói “Lấy giúp em bốn trăm”, người này nói “Đưa tiền đây”. Nghe vậy, S lấy từ trong túi quần ra 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng) gồm 02 (hai) tờ tiền polime, mỗi tờ có mệnh giá 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) đưa cho người đàn ông này. Người này cầm tiền của S rồi lấy từ trong túi quần ra 02 (Hai) gói ma túy được gói bằng giấy màu trắng và đưa cho S. S lấy 02 (hai) gói ma túy cầm ở tay trái rồi điều khiển xe máy điện để đi về nhà. Lúc đi đến khu vực trước cổng Bưu điện huyện Đ thuộc khối 3, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh N, lúc này khoảng 22 giờ 00 phút ngày 5 tháng 6 năm 2021 thì Đào Xuân S bị Công an huyện Đ bắt quả tang, do hoảng sợ nên Đào Xuân S đã thả 02 (hai) gói ma túy từ tay trái của S xuống mặt đường ngay tại vị trí S dừng xe. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ trên mặt đất tại vị trí Đào Xuân S đứng 02 (hai) gói nhỏ bằng giấy màu trắng kích thước 1x1,5cm, bên trong mỗi gói đều có chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy heroine; 01 xe điện nhãn hiệu VENUS, màu trắng, mang biển kiểm soát 37MĐ2-xxxxx.

Ngày 05 tháng 6 năm 2021, tại Công an huyện Đ, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã tiến hành lập hội đồng mở niêm phong xác định khối lượng lấy mẫu giám định và niêm phong lại. Sau khi loại bỏ bao bì, số chất bột màu trắng nghi là ma túy thu giữ của Đào Xuân S, kí hiệu A1 và A2 có tổng khối lượng là: 0,4 gam (Không phẩy bốn gam). Hội đồng đã lấy toàn bộ số chất bột màu trắng ký hiệu A1, A2 gửi đi giám định tại Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh N.

Tại Bản kết luận giám định số 899/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 11 tháng 6 năm 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: 02 (Hai) mẫu vật chất bột màu trắng (Ký hiệu A1 và A2) thu giữ của Đào Xuân S gửi tới giám định đều là ma túy (Heroine). Số chất bột màu trắng (02 gói) thu giữ của Đào Xuân S có tổng khối lượng là 0,4 gam (Không phẩy bốn gam). Mẫu cần giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.

* Về vật chứng vụ án:

Số chất bột màu trắng thu giữ của Đào Xuân S đã sử dụng hết trong quá trình giám định; còn lại 02 (hai) vỏ giấy màu trắng thu giữ của Đào Xuân S, vỏ phong bì niêm phong ban đầu được niêm phong trong một phong bì thư màu trắng của Công an huyện Đ, kích thước 17x23cm theo đúng quy định, phía sau trên các mép dán có đầy đủ chữ ký của các thành viên tham gia niêm phong và chữ ký của đối tượng Đào Xuân S đang được bảo quản tại kho vật chứng Công an huyện Đ.

Đối với 01 (một) xe máy điện nhãn hiệu VENUS, màu trắng, biển kiểm soát MĐ2-xxxxx, số máy VTY60V800W16005316, số khung RN4YVEHN4HLA05316, xe đã qua sử dụng; đây là tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ông Đào Văn Q, sinh năm 1949, trú tại khối 2, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh N (bố đẻ của Đào Xuân S), ông Đào Văn Q không biết việc Đào Xuân S sử dụng chiếc xe máy điện nói trên vào việc phạm tội ma túy nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã tiến hành trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp theo đúng quy định.

Bản cáo trạng số 67/CT-VKS-ĐL ngày 23/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh N truy tố Đào Xuân S về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh N giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt: Tuyên bố bị cáo Đào Xuân S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy". Áp dụng điểm c khoản 1 điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đào Xuân S từ 18 tháng đến 21 tháng tù.

Miễn hình phạt phụ là phạt tiền cho bị cáo. Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo nhất trí về tội danh, khung hình phạt, không tranh luận gì thêm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ lien quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người làm chứng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Tại phiên tòa người làm chứng và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng xét thấy họ đã có lời khai đầy đủ và không ảnh hưởng tới quá trình xét xử vụ án. Căn cứ vào các Điều 292, 293, 299 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thống nhất vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Đào Xuân S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa kết luận: Có đủ cơ sở kết luận Đào Xuân S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự.

Hội đồng xét xử nhận thấy: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, được chứng minh bằng Biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N, đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 22 giờ 00 phút ngày 05/6/2021, tại khu vực khối 3, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh N. Bị cáo Đào Xuân S đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,4 gam ma túy (Heroine) mục đích sử dụng thì bị bắt giữ. Như vậy hành vi của Đào Xuân S đã đủ yếu tố cấu thành tội: "Tàng trữ trái phép chất ma túy" được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Đây là vụ án thuộc loại nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trật tự trị an xã hội, gây hoang mang dao động trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của nhân dân, gây tâm lý bất an trong xã hội, bị cáo S được sinh ra trong gia đình lao động nhưng không tu chí làm ăn mà đua đòi nghiện ngập nên bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Chính vì vậy đưa bị cáo ra xét xử công khai tại phiên toà hôm nay và lên cho bị cáo mức án nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.

Tuy nhiên cũng cần xem xét bị cáo là đối tượng chưa có tiền án tiền sự, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có bố đẻ là thương binh và là người có công với cách mạng được tặng thưởng huân huy chương. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, 2 điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng để giảm nhẹ phần nào hình phạt cho bị cáo thể hiện tính khoan hồng của pháp luật.

Do bị cáo S đang bị tạm giam nên cần quyết định tạm giam bị cáo 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo cho việc thi hành án.

[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù bị cáo còn có thể bị phạt tiền hoặc tịch thu tài sản, nhưng qua xác minh của cơ quan điều tra thì bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, tài sản riêng không có gì đáng giá vì vậy không áp dụng hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với bị cáo.

[6] Trong vụ án này, có đối tượng S khai nhận đã bán ma tuý cho bị cáo, quá trình điều tra không xác định được đối tượng nào như S mô tả. Cơ quan điều tra Công an huyện Đ tiếp tục điều tra xác minh làm rõ và xử lý sau.

[7] Về vật chứng và xử lý vật chứng: 01 phong bì thư màu trắng của Công an huyện Đ đã niêm phong bên trong có chứa 02 vỏ giấy màu trắng và vỏ phong bì niêm phong ban đầu là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy;

[8] Về án phí: Căn cứ điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội;

buộc bị cáo S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ tại phiên tòa về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. tuy nhiên xét thấy mức hình phạt của bị cáo mà đại diện viện kiểm sát đề nghị là thấp so với hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải lên cho bị cáo một mức án cao hơn đại diện viện kiểm sát đề nghị mới đủ nghiêm và răn đe đối với bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Đào Xuân S phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt: bị cáo Đào Xuân S 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo (05/6/2021).

2. Về vật chứng và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì thư đã niêm phong bên trong là 02 vỏ giấy màu trắng và vỏ phong bì niêm phong ban đầu.

(Vật chứng trên có tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 24/6/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Đ).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội: Buộc bị cáo Đào Xuân S phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo Đào Xuân S có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Đào Văn Q vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh N trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 65/2021/HS-ST

Số hiệu:65/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về