Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HÒA, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 63/2021/HS-ST NGÀY 25/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 9 năm 2021 tại Tòa án nhân dân huyện U, TP. H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 64/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 29/2021/QĐST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Tiến D (tên gọi khác Tr) - sinh năm 1982; Nơi ĐKHKTT: thôn T, xã H, huyện Ư, thành phố H ; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tiến H1 và bà Nguyễn Thị T; vợ: Nguyễn Thị L; con: 03 con (lớn nhất sinh năm 2007, nhỏ nhất sinh năm 2013); Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 15/11/2012, bị Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố H xử phạt 30 tháng tù về tội: “Cướp tài sản”, đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 30/4/2021 đến ngày 09/5/2021 được huỷ bỏ biện pháp tạm giữ, áp dụng “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú”.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Lê Xuân H – sinh năm 1945 (vắng mặt)

+ Chị Hà Thị N– sinh năm 1985 (vắng mặt) Nơi ĐKHKTT: thôn Q, xã Q1, huyện U, thành phố H

* Người làm chứng: Ông Nguyễn Bá M – sinh năm 1961(vắng mặt) Đều có HKTT: Q, xã Q1, huyện Ư, thành phố H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 29/4/2021, Tổ công tác Công an xã Q1, huyện U, thành phố H kiểm tra hành chính nhà nghỉ T tại thôn Q, xã Q1, huyện U thì phát hiện trong phòng 203 của nhà nghỉ có Nguyễn Tiến D, sinh năm 1982, trú tại thôn T, xã H, huyện U. Tại chỗ, D tự nguyện giao nộp cho lực lượng Công an 01 túi nilông từ lấy ra từ túi quần bên phải và 01 túi nilông trong chiếc giầy bên phải của D, cả hai túi đều có đặc điểm bên ngoài bọc bằng nilông màu trắng, bên trong đều có tinh thể màu trắng, D khai nhận là chất ma túy được một người bạn tên “H” cho trước đó để sử dụng. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và chuyển D cùng toàn bộ tài liệu liên quan đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện U để xử lý theo quy định của pháp luật.

Vật chứng thu giữ: 02 túi nilông màu trắng, kích thước (1,5 x 1,5)cm, bên trong cả hai túi đều có tinh thể màu trắng.

Sau khi bị bắt Nguyễn Tiến D khai nhận: Khoảng 20 giờ ngày 29/4/2021, D đang ở nhà thì có bạn là H đến rủ đi sinh nhật, D đồng ý và cùng H đến nhà nghỉ T ở thôn Q, xã Q1. Tại đây, H và D cùng sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng do ma túy còn nhiều nên H chia làm 02 túi và cho D một túi, D cất túi ma túy H cho vào chiếc giày bên phải đang đi, còn 01 túi H để ở bàn và nói đợi bạn của H đến rồi sử dụng tiếp.

Sau đó, H ra ngoài nghe điện thoại; D ở trong phòng thấy có lực lượng Công an đến kiểm tra đã cất giấu 01 túi ma túy trên bàn vào túi quần bên phải đang mặc thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ vật chứng như đã nêu trên.

Ngày 30/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Ứng Hoà đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 100 đối với số ma tuý thu giữ của Nguyễn Tiến D.

Tại bản kết luận giám định số 3679/KLGĐ-PC09 ngày 07/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố H kết luận: “Tinh thể màu trắng bên trong 02 túi nilông đều là ma túy loại Methamphetamine, tổng khối lượng 0,611gam”.

Với hành vi nêu trên, tại bản Cáo trạng số: 59/CT-VKS ngày 26 tháng 8 năm 2021 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện U đã truy tố bị cáo Nguyễn Tiến D về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

Tại phiên toà: Bị cáo đã thừa nhận hành vi như bản Cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo D từ 24 tháng đến 30 tháng tù trừ thời gian tạm giữ. Áp dụng khoản 1 Điều 46, khoản 1 Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong chứa số ma túy gửi lại sau giám định. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Bị cáo phải nộp án phí theo quy định.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ và tài liệu, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện U, Điều tra viên Công an huyện U đã thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo, đương sự không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do vậy các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp, phù hợp với các quy định của BLTTHS.

[2] Tại phiên toà bị cáo nhận tội như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Xét lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời trình bày của người liên quan và người làm chứng; vật chứng đã thu giữ được cùng các tài liệu khác đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ khẳng định: Nguyễn Tiến D là đối tượng nghiện ma túy. Ngày 29/4/2021, Nguyễn Tiến D đã mua và tàng trữ trái phép 0,611 gam chất ma túy Methamphetmine nhằm mục đích để sử dụng đã bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Hành vi trên của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo với tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét, hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Tiến D đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý và sử dụng chất ma tuý của Nhà nước, làm gia tăng tệ nạn ma tuý, ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Bản thân bị cáo có đủ năng lực chịu trách hiệm hình sự, nhận thức rõ được tác hại của ma túy và nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình; đồng thời bị cáo có nhân thân về tội “Cướp tài sản” với mức hình phạt 30 tháng tù nhưng bị cáo không lấy đó là bài học rút kinh nghiệm. Do đó phải áp dụng hình phạt thật nghiêm khắc mới có tác dụng đối với bị cáo và phòng ngừa chung, cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới phản ánh đúng tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải do đó Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có việc làm ổn định, bản thân nghiện ma túy nhiều năm, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Đối với nguồn gốc số ma tuý, bị cáo Nguyễn Tiến D khai: Ngày 29/4/2021, thanh niên tên “H” rủ và cho D cùng sử dụng ma túy. D chỉ biết người này tự giới thiệu tên là “H”, sinh năm 1992 ở thôn Nghi Lộc, xã Sơn Công, huyện U, thành phố H, ngoài ra tên tuổi và địa chỉ chính xác D không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện U đã xác minh tại Công an xã Sơn Công, nhưng không có thanh niên nào tên “H” có đặc điểm như D khai nhận, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện U không đủ căn cứ xác minh làm rõ.

[6] Đối với ông Lê Xuân H, sinh năm 1945 là chủ nhà nghỉ T và chị Hà Thị N, sinh năm 1980 (là con dâu ông H) cùng trú tại thôn Q, xã Q1, huyện U là người được ông H giao quản lý nhà nghỉ T. Ngày 29/4/2021, việc Nguyễn Tiến D thuê phòng nghỉ số 203 sau đó sử dụng và tàng trữ trái phép chất ma tuý ông H và chị N không biết vì vậy không cấu thành tội: “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”, quy định tại Điều 256 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, chị N là người quản lý nhà nghỉ T, quá trình D đến thuê phòng nghỉ, chị N đã không yêu cầu xuất trình giấy tờ cá nhân, không ghi thông tin người thuê phòng vào sổ lưu trú. Ngày 20/7/2021, Cơ quan CSĐT - Công an huyện U đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với chị Hà Thị Nlà có căn cứ.

[7] Về vật chứng: Đối với 01 phong bì niêm phong đề Công an thành phố H, đơn vị công an huyện U, tên đối tượng Nguyễn Tiến D bên trong chứa ma túy gửi lại sau giám định cần tịch thu tiêu hủy là phù hợp với quy định tại Điều 46, Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS.

[8] Về án phí, quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 135; khoản 2 Điều 136 BLTTHS Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 331, Điều 333BLTTHS.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51; Điều 38; Điều 46, 47 của BLHS;

Căn cứ Điều 106; Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 của BLTTHS.

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tiến D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Nguyễn Tiến D: 24 (H mươi bốn) tháng tù, tính từ ngày bắt thi hành án được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 30/4/2021 đến ngày 09/5/2021.

3. Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì niêm phong gửi lại sau giám định đề Công an thành phố H, đơn vị công an huyện U, tên đối tượng Nguyễn Tiến D. (Tình trạng như biên bản giao, nhận vật chứng giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự huyện Ứng Hoà ngày 14/9/2021).

4. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tiến D phải chịu 200.000đ (H trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết tại nơi cư trú và được kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 63/2021/HS-ST

Số hiệu:63/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về