Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 62/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 62/2023/HS-ST NGÀY 22/06/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 57/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 61/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Đinh Văn N, sinh ngày 06/3/1984 tại huyện H, tỉnh T Nơi cư trú: Thôn B, xã D, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đinh Văn V, sinh năm 1960 và bà: Vũ Thị C, sinh năm 1960; vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Quyết định số 01/QĐ-XPHC ngày 30/01/2022, Công an xã C, huyện Q, tỉnh T xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 04/4/2023 đến ngày 07/4/2023 chuyển tạm giam cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ - Công an huyện Quỳnh Phụ.

(Bị cáo trích xuất có mặt tại phiên toà).

- Người chứng kiến:

+ Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1976 Cư trú: Thôn T, xã C, huyện Q, tỉnh T + Anh Vũ Văn A, sinh năm 1980 Cư trú: Thôn M, xã C, huyện Q, tỉnh T (Anh V, anh A vắng mặt tại phiên toà).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào hồi 09 giờ 45 phút ngày 04/4/2023, tại đường thôn L, xã C, tổ công tác Công an huyện Quỳnh Phụ cùng Công an xã C phát hiện Đinh Văn N đi bộ có biểu hiện liên quan đến ma túy nên đã yêu cầu đứng lại. Lúc này, N thả 01 gói nhỏ ở lòng bàn tay trái xuống đường, tổ công tác yêu cầu N nhặt lên cho vào túi quần trước bên phải đang mặc về Uỷ ban nhân dân xã C, huyện Q làm việc. Tại đây trước sự chứng kiến của anh Nguyễn Văn V và anh Vũ Văn A, tổ công tác đã kiểm tra thu tại túi quần trước bên phải N mặc 01 gói nhỏ vỏ ngoài là giấy trắng mực in nhiều màu, bên trong có chất bột màu trắng dạng cục. N khai đó là gói heroin N mua để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng để tiếp tục điều tra, làm rõ.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Đinh Văn N ở Thôn B, xã D, huyện H, tỉnh T không phát hiện, thu giữ gì.

Quá trình điều tra, truy tố, Đinh Văn N khai nhận như sau: Bản thân N nghiện chất ma túy. Khoảng 09 giờ 10 phút ngày 04/4/2023, N đi bộ từ nhà đến đường thôn L, xã C, huyện Quỳnh Phụ mua ma túy của một người đàn ông không quen biết khoảng 45 tuổi 01 gói ma túy với giá 200.000 đồng. N cầm gói ma túy ở lòng bàn tay phải đi tìm chỗ vắng để sử dụng thì bị gặp tổ công tác công an huyện Quỳnh Phụ và công an xã C yêu cầu đứng lại kiểm tra. Do hoảng sợ N đã thả gói ma túy xuống đường, bị tổ công tác phát hiện yêu cầu nhặt lên cho vào túi quần trước bên phải về Uỷ ban nhân dân xã C làm việc.

Tại bản kết luận giám định số 481/KL-KTHS ngày 05/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: “Mẫu trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Heroin (Heroine), có tên khoa học là Diacetymorphine, được quy định tại Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính Phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất; có khối lượng 0,1770 gam (không phẩy một nghìn bẩy trăm bẩy mươi gam). Heroine STT: 09, Danh mục IA phụ lục kèm theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính Phủ.” Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo Đinh Văn N không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định trên.

Cáo trạng số 61/CT-VKSQP ngày 23/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã truy tố Đinh Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như đã nêu trong bản Cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Đinh Văn N và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo mức án từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ; đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Ngoài ra, còn đề nghị về xử lý vật chứng và nghĩa vụ nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo Đinh Văn N không tranh luận với Kiểm sát viên. Bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về quyết định, hành vi tố tụng: Quyết định tố tụng, hành vi tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh phụ, tỉnh Thái Bình, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo Đinh Văn N tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra có trong hồ sơ vụ án (bút lục số: 57 - 70); phù hợp với bản tự khai và biên bản ghi lời khai của những người chứng kiến là anh Nguyễn Văn V (bút lục số: 47-51) và anh Vũ Văn A (bút lục số: 52 -56). Ngoài ra hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ lập hồi 10 giờ; biên bản quản lý đồ vật, tài liệu lập hồi 11 giờ 30 phút; Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu lập hồi 11 giờ 50 phút cùng ngày 04/4/2023 tại UBND xã C, huyện Q(bút lục số:

01-02; 04-05); biên bản mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định do cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Quỳnh phụ lập hồi 15 giờ 30 phút ngày 4/4/2023 tại phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (bút lục: 07); Phiếu xét nghiệm test nhanh Morphin/heroin ngày 4/4/2023 của Trung tâm y tế huyện Quỳnh Phụ (bút lục số 38); bản kết luận giám định số 481/KL- KTHS ngày 05/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình (bút lục số: 08), cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 09 giờ 45 phút ngày 04/4/2023, tại đường thôn L, xã C, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Đinh Văn N có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói ma túy, loại heroine, có khối lượng 0,1770 gam để sử dụng cho bản thân, bị công an huyện Quỳnh Phụ và công an xã C phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Đinh Văn N đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội quy định tại các điều 248,250,251 và 252 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam đến dưới 500 gam;

c) Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

…… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc N định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.” Như vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ đã truy tố bị cáo Đinh Văn N với tội danh, điều khoản nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương, gây dư luận không tốt trên địa bàn nơi xảy ra vụ án. Ma tuý không những gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình mà còn là nguyên nhân làm phát sinh nhiều tệ nạn xã hội khác. Trong khi cả xã hội đang ra sức bài trừ tệ nạn ma túy ra khỏi đời sống cộng đồng thì bị cáo lại thực hiện hành vi tàng trữ ma túy để thỏa mãn nhu cầu sử dụng của bản thân, điều đó thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Đinh Văn N không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về nhân thân: Ngày 30/01/2022, bị cáo bị Công an xã C, huyện Q, tỉnh T xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Tuy đã đủ thời gian để được coi là chưa từng bị xử phạt vi phạm hành chính nhưng đây cũng là một trong những căn cứ để Toà án cân nhắc khi lượng hình đối với bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Từ những nhận định nêu trên, đối chiếu với các quy định của pháp luật, và xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục bị cáo nói riêng và đấu tranh, phòng ngừa tội phạm ma túy nói chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, phạm tội nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán để kiếm lời nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Chất ma túy thu giữ của bị cáo Đinh Văn N hoàn trả lại sau giám định là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy.

[8] Về nguồn gốc Heroine, bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết, tại khu vực thôn L, xã C nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để điều tra, xử lý.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Đinh Văn N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố bị cáo Đinh Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Đinh Văn N 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ 04/4/2023.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ 0,1376 gam (không phẩy một nghìn ba trăm bảy mươi sáu gam) Heroine hoàn lại sau giám định cùng bao gói trong phong bì niêm phong số 481/KL-KTHS của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thái Bình.

(Vật chứng trên đang được Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình quản lý theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 64 ngày 24/5/2023 giữa Công an huyện Quỳnh Phụ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Đinh Văn N phải nộp số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Đinh Văn N có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (22/6/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

73
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 62/2023/HS-ST

Số hiệu:62/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về