TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 75/2023/HS-ST NGÀY 25/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 25-8-2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 68/2023/TLST-HS ngày 21 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2023/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:
Từ Quang A, sinh năm 1984 Nơi cư trú: tổ dân phố 8, phường T, thành phố Đ, tỉnh Điện Biên.
Nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Từ Quang H và bà Trần Thị Thanh B; vợ Đỗ Thị Thanh L; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2012, con nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 26-02-2023, đến ngày 04-3-2023 chuyển tạm giam, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (bị cáo có mặt tại phiên tòa).
- Người làm chứng:
1. Ông Phạm Thanh M, sinh năm 1979, (vắng mặt) Nơi cư trú: thôn Tam Đường, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
2. Ông Trần Hữu Q, sinh năm 1977, (vắng mặt) Nơi cư trú: thôn Phú Vật, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 16 giờ ngày 26-02-2023, tại đường ĐH62 thuộc địa phận thôn Phú Vật, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, tổ công tác Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang bị cáo Từ Quang A tay phải đang cầm gói giấy màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng dạng cục, bị cáo A khai nhận là ma túy, loại heroine, cất giấu để sử dụng. Tổ công tác Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong 01 gói giấy màu trắng nêu trên trước sự chứng kiến của những người làm chứng.
Tại Bản kết luận giám định số 272/KL - KTHS ngày 27-03-2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận mẫu gửi giám định quản lý của Từ Quang A là ma túy, loại Hêrôin (Heroine) có khối lượng là 0,1297 gam (Không phẩy một nghìn hai trăm chín mươi bảy gam). Heroine STT: 09, Danh mục IA phụ lục kèm theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25-8-2022 của Chính phủ.
Bản cáo trạng số 70/CT-VKSHH ngày 20-7-2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Từ Quang A ra trước Toà án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình để xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (viết tắt BLHS).
Tại phiên tòa bị cáo Từ Quang A khai nhận: bị cáo sử dụng ma túy từ năm 2022, loại ma túy bị cáo thường sử dụng là heroine, bị cáo sử dụng bằng cách đốt ma túy rồi hít khói vào cơ thể. Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 26-02-2023, bị cáo đi bộ một mình từ nhà của bố mẹ ở thôn Phú Vật, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ra đường Thái Hà, gần trạm thu phí mục đích tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Bị cáo có gặp một người đàn ông khoảng 40 tuổi, bị cáo không biết họ tên, địa chỉ người đàn ông đó ở đâu, qua nói chuyện bị cáo biết người đàn ông đó cũng nghiện ma túy như bị cáo, và có thể mua được ma túy nên bị cáo đã đặt vấn đề nhờ người đàn ông đó mua hộ 100.000 đồng ma túy loại heroine, người đàn ông đồng ý. Bị cáo đưa cho người đàn ông đó 100.000 đồng, người đàn ông cầm tiền đi đâu đó khoảng 10 phút thì quay lại đưa cho bị cáo 01 gói giấy màu trắng, bị cáo biết đó là ma túy nên cầm trong lòng bàn tay phải đi bộ về nhà để sử dụng. Khi bị cáo đi về đến đoạn đường ĐH62, thuộc địa phận thôn Phú Vật, xã T thì bị Công an huyện Hưng Hà bắt quả tang như nội dung đã nêu ở trên.
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Từ Quang A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 của BLHS, xử phạt bị cáo A từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù kể từ ngày 26-02-2023; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng Điều 106 của BLTTHS và Điều 47 của BLHS, tịch thu để tiêu hủy số ma túy quản lý của bị cáo A trong phong bì niêm phong số 272/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình. Bị cáo A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Những người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Xét thấy tại giai đoạn điều tra họ đã có lời khai đầy đủ lưu trong hồ sơ vụ án nên sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 293 của BLTTHS.
[3] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: lời khai của bị cáo A tại phiên tòa phù hợp với khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và còn phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà lập hồi 16 giờ 20 phút ngày 26-02- 2023 tại trụ sở UBND xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (bút lục số 33 đến 34); Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình lập hồi 17 giờ 40 phút ngày 26-02-2023 tại UBND xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (bút lục số 35); Bản kết luận giám định số 272/KL - KTHS ngày 27-02-2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (Bút lục số 42); Biên bản ghi lời khai của những người làm chứng là ông Phạm Thanh M và ông Trần Hữu Q (bút lục từ số 85 đến số 92).
[4] Như vậy có đủ cơ sở kết luận vào 16 giờ 00 phút ngày 26-02-2023, tại đoạn đường ĐH 62, thuộc địa phận thôn Phú Vật, xã T, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, bị cáo Từ Quang A đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1297 gam ma túy, loại Heroine mục đích để sử dụng, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.
Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà truy tố bị cáo hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
…… c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
… 5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản” [5] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo A thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy. Bị cáo nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện, gây tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe của người sử dụng, làm suy kiệt kinh tế gia đình của người sử dụng, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của rất nhiều loại tội phạm khác gây mất trật tự xã hội, Nhà nước đã nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán…trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội, vì vậy cần phải áp dụng hình phạt tù theo quy định của khung hình phạt, cách ly bị cáo khỏi cuộc sống ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và có tính chất răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên tại phiên toà cũng như tại giai đoạn điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử cũng xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.
[6] Về hình phạt bổ sung: xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, không có thu nhập ổn định; bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy không vì mục đích lợi nhuận, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Về nguồn gốc ma túy: bị cáo A khai, số ma túy bị cáo tàng trữ do bị cáo mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi, không biết tên, địa chỉ, mua ở đoạn đường Thái Hà, gần trạm thu phí. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành điều tra, xác minh, ngoài lời khai của bị cáo A ra không còn tài liệu, chứng cứ nào khác xác định người đã bán ma túy cho bị cáo A. Do không có căn cứ để xác định con người cụ thể bán ma túy cho bị cáo theo như lời khai của bị cáo nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này là phù hợp.
[8] Về vật chứng của vụ án: số ma túy Cơ quan điều tra quản lý của bị cáo Từ Quang A, sau khi được giám định, số còn lại được niêm phong trong phong bì số 272/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, xét thấy đây là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu để tiêu hủy.
[9] Về án phí: Bị cáo A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Từ Quang A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 50 của Bộ luật Hình sự. Phạt bị cáo Từ Quang A 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 26-02-2023.
2. Áp dụng Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 47 của Bộ luật Hình sự.
Tịch thu để tiêu hủy toàn bộ số ma túy quản lý của bị cáo Từ Quang A, sau khi giám định số còn lại được niêm phong trong phong bì số 272/KL-KTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (Vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20-7-2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà).
3. Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Từ Quang A phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.
4. Bị cáo Từ Quang A có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 75/2023/HS-ST
Số hiệu: | 75/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về