Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 57/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIÊN DU, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 57/2023/HS-ST NGÀY 17/01/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiên Du xét xử sơ thẩm công khaivụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 61/2023/TLST-HS ngày 04/01/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2023/QĐXXST-HS ngày 06/01/2023đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Bỉnh T, sinh năm 1993; nơi ĐKHKTT: Thôn N, xã M, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Bỉnh T1, sinh năm 1956 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1956 (Đã chết); gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; vợ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1996 (Đã ly hôn); con: Có 01 con, sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không - Nhân thân: Tại Bản án số 58/HSST ngày 20/3/2018, Tòa án nhân dân quận Long Biên, TP. Hà Nội xử 16 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS. Ngày 08/02/2019 chấp hành xong hình phạt về địa phương, đã chấp hành xong toàn bộ bản án.

- Bị cáobị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2022 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.

2. Nguyễn Bỉnh N, sinh năm 1983; nơi ĐKHKTT: Thôn N, xã M, huyện T, tỉnh Bắc Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không;quốc tịch: Việt Nam;con ông Nguyễn Bỉnh Đ, sinh năm 1940 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1945; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ 4; vợ: Nguyễn Thị Q, sinh năm 1982; con: Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2005, nhỏ nhất sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không.

- Bị cáobị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2022 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chùa P; Địa chỉ: thôn P, xã P, huyện T, tỉnh Bắc Ninh.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Dương Văn Đ, sinh năm 1992; HKTT: thôn P, xã P, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. Vắng mặt.

* Người làm chứng:

1. Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1966;

2. Ông Nguyễn Xuân C, sinh năm 1968;

Cùng trú tại: thôn P, xã P, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. (Đều vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Bỉnh T, sinh năm 1993 và Nguyễn Bỉnh N, sinh năm 1983 đều trú tại Thôn Nỉ, xã M, huyện T, tỉnh Bắc Ninh có mối quan hệ họ hàng chú cháu cùng thôn và đều là đối tượng thường xuyên sử dụng trái phép chất ma túy. Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên T đã rủ N cùng đi mua ma túy về sử dụng.

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 21/10/2022, T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu SYM Angel màu đỏ - nâu, không gắn biển kiểm soát chở N đi đến xã Hoàn Sơn vào một cửa hàng mua bán điện thoại di động (Thưởng và N không nhớ địa chỉ cụ thể) bán chiếc điện thoại Huawei của T được 1.700.000 đồng. Sau đó, T chở N đến một cửa hàng mua bán điện thoại di động khác mua 01 chiếc điện thoại di động Iphone 5 với giá 700.000 đồng rồi đi ra TP. Từ Sơn tìm mua ma túy. Khi đến một ngõ ở phường Tân Hồng, TP. Từ Sơn (Thưởng và N không biết cụ thể địa chỉ của ngõ này), T và N gặp một người đàn ông không quen biết đứng ở lề đường và mua của ông ta 500.000 đồng được 01 gói giấy bạc màu trắng chứa ma túy Heroine. T cầm gói ma túy vừa mua cất vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô chở N đi tìm nơi sử dụng. Khi đến khu vực nghĩa địa thuộc phường Tân Hồng, TP. Từ Sơn, T đã dừng xe lại rồi cùng N vào trong nghĩa địa cùng nhau sử dụng một phần gói ma túy vừa mua được. Số ma túy còn lại T chia một nửa bọc bằng giấy bạc màu trắng, phần còn lại T gói lại cất vào túi áo trước bên trái của mình để sử dụng sau rồi T đưa cho N 01 gói giấy bạc ma túy để khi nào N có nhu cầu thì sử dụng. N cầm gói ma túy T đưa cất giấu vào túi quần trước bên phải rồi ngồi sau xe T chở về nhà. Trên đường về, do không có tiền chi tiêu nên T rủ N vào chùa Phật Tích thuộc thôn Phật Tích, xã Phật Tích để trộm cắp tiền, N đồng ý. T điều khiển xe chở N đến chùa Phật Tích. Tại đây, N đứng ngoài cửa chùa cảnh giới, T đã đi bộ đến các ban thờ phật trộm cắp tiền trên các đĩa ở ban thờ rồi cất giấu vào túi áo trước bên trái. Sau đó, T ra cửa nói với N là trộm cắp được 320.000 đồng rồi cả hai đi đến quán nước ở trước cổng chùa ngồi uống nước.

Lúc này, hồi 16 giờ cùng ngày, ông Nguyễn Văn P sinh năm 1966 và ông Nguyễn Xuân C, sinh năm 1968 đều ở thôn P, xã P, huyện T là bảo vệ của chùa P kiểm tra qua camera an ninh thì phát hiện T và N trộm cắp tiền ở các ban thờ nên đã báo Công an xã. Công an xã đã tiến hành kiểm tra T và N, phát hiện bắt quả tang và thu giữ:

* Thu của T:

+ Tại túi áo trước bên trái có: 441.000 đồng tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam và 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng. T và N khai nhận đây là tiền trong đó có 320.000 đồng vừa trộm cắp và ma túy cả hai đã mua về để sử dụng. Cơ quan Công an đã tiến hành niêm phong gói ma túy trong phong bì ký hiệu M1.

+ Tại túi quần trước bên trái có 01 chiếc điện thoại di động Iphone 5 màu trắng – đỏ kèm simcard.

+ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu SYM Angel màu đỏ - nâu, không gắn biển kiểm soát, có số máy: HB048631, số khung: 90B4X048631;

* Thu của N:

+ Tại túi quần trước bên phải có 01 gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng. T và N khai nhận đây là ma túy cả hai đã mua về để sử dụng. Cơ quan Công an đã tiến hành niêm phong gói ma túy trong phong bì ký hiệu M2.

Cơ quan Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, đưa T, N và những người chứng kiến cùng toàn bộ vật chứng về Công an xã Phật Tích làm việc.

Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an huyện Tiên Du ra Quyết định trưng cầu giám định đối với số ma túy thu giữ trên người của T và N. Tại Bản Kết luận giám định số: 1705/KL-KTHS ngày 24/10/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận:

“- Chất bột màu trắng bên trong phong bì ký hiệu M1 có khối lượng là 0,1445 gam; Là ma túy; loại ma túy: Heroine.

- Chất bột màu trắng bên trong phong bì ký hiệu M2 có khối lượng là 0,1667 gam; Là ma túy; loại ma túy: Heroine.

Tổng khối lượng ma túy Heroine là: 0,3112 gam” Tại bản Cáo trạng số: 08/CT-VKS-TD ngày 03/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du đã truy tố bị cáo Nguyễn Bỉnh T và Nguyễn Bỉnh N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.Các bị cáo khai nhận: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 21/10/2022, T điều khiển xe mô tô chở N cùng nhau đi mua ma túy để về sử dụng. Khi đi đến một ngõ thuộc phường Tân Hồng, thành phố Từ Sơn thì T và N đã mua 01 gói giấy bạc màu trắng chứa ma túy Heroine với giá 500.000 đồng của một người đàn ông không quen biết. Ngoài ra, trên đường đi về do không có tiền tiêu sài cá nhân nên T và N đã có hành vi trộm cắp số tiền 320.000 đồng trên các đĩa ở ban thờ tại Chùa Phật Tích, thuộc thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du. Các bị cáo biết hành vi của mình là sai, mong HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Ông Dương Văn Đ vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có lời khai: Đối với số tiền mà các bị cáo đã trộm cắp được tại chùa Phật Tích, số tiền này đã được trả lại cho nhà Chùa, nên không có yêu cầu gì đối với các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du thực hành quyền công tố tại phiên tòa phát biểu luận tội; sau khi đưa ra các chứng cứ, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

-Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Bỉnh T, Nguyễn Bỉnh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

-Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1Điều 51 (áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 đối với bị cáo N);Điều 17; Điều 38 BLHS:

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Bỉnh T từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/10/2022 + Xử phạt bị cáo Nguyễn Bỉnh N từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/20/2022.

Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có công ăn việc làm ổn định, nên đề nghị miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết.

- Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư hoàn trả mẫu vật sau giám định niêm phong còn nguyên vẹn.

+ Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM ENGLE màu nâu, không gắn BKS, số máy: HB 048631; số khung VDNFM90B4X04863.

+ Trả lại cho bị cáo T: Số tiền 121.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng – đỏ đã qua sử dụng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Sau khi nghe Kiểm sát viên phát biểu luận tội, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát. Tại phần nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1. Tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn nhận hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận:Khoảng 16 giờ ngày 21/10/2022, tại Chùa Phật Tích thuộc thôn Phật Tích, xã Phật Tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Cơ quan Công an đã bắt quả tang Nguyễn Bỉnh T và Nguyễn Bỉnh N đang có hành vi tàng trữ 0,3112 gam ma túy Heroine với mục đích để sử dụng.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý. Như vậy, hành vi của các bị cáo mua chất ma túyđể về sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm ckhoản 1 Điều 249 BLHS. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố các bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm tới chính sách quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, ảnh hưởng tới sức khỏe con người, đồng thời là nguyên nhân dẫn đến các tội phạm nguy hiểm khác như giết người, cướp tài sản. Bản thân các bị cáo cũng hiểu biết về tác hại của ma túy cũng như những qui định của pháp luật nghiêm cấm đối với tất cả các hành vi phạm tội liên quan đến ma túy nhưng vẫn vi phạm, vì vậy cần xét xử nghiêm để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

2. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, HĐXX thấy:

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đã khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân nên cả hai bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS. Ngoài ra bị cáo N có bố là thương binh nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

HĐXX xét thấy: Vụ án có tình chất đồng phạm giản đơn, trong đó bị cáo T là người rủ bị cáo N cùng đi mua ma túy để sử dụng. Bị cáo T là người có nhân thân xấu đã từng bị Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội xử phạt 16 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng không lấy đó làm bài học mà tiếp tục phạm tội, thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật, bị cáo N có nhân thân tốt, cần căn cứ vào nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi lượng hình. Do vậy cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung trong nhân dân.

Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo như đề nghị của đại diện VKS là phù hợp.

3. Về trách nhiệm dân sự: Đối với số tiền 321.000 đồng mà các bị cáo đã trộm cắp của chùa Phật Tích đã thu hồi được, trả lại cho Chùa, đại diện của Chùa Phật Tích là anh Dương Văn Đ không có yêu cầu gì, nên không xem xét giải quyết.

4. Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 (một) phong bì thư hoàn trả mẫu vật sau giám định được niêm phong dán kín, trên mép dán có chữ ký niêm phong của giám định viên và dấu đỏ của Phòng PC – 09 Công an tỉnh Bắc Ninh là chất ma túy cấm lưu hành và sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM ENGLE màu nâu, không gắn BKS, số máy: HB 048631; số khung VDNFM90B4X048631, loại xe 02 bánh từ 50- 175cm3, dung tích xi lanh 85 là xe của bị cáo T đã điều khiển khi phạm tội, có giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

+ Đối với số tiền 121.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng – đỏ đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo T không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo T, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

5. Những vấn đề khác:

- Đối với người đàn ông bán ma túy cho T và N tại khu vực nghĩa trang thuộc phường Đình Bảng, TP. Từ Sơn, do không biết tên tuổi, địa chỉ của người này nên cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra, khi nào làm rõ sẽ xử lý sau.

- Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại khu nghĩa địa thuộc phường Tân Hồng, TP. Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh của T và N, do không thuộc thẩm quyền xử lý nên ngày 31/10/2022, cơ quan điều tra Công an huyện Tiên Du đã có văn bản thông báo cho cơ quan Công an TP. Từ Sơn để xử lý theo thẩm quyền là đúng quy định của pháp luật.

- Đối với hành vi trộm cắp tiền tại Chùa Phật Tích ngày 21/10/2022 của T và N, quá trình điều tra xác định T và N trộm cắp số tiền dưới 2.000.000 đồng, đồng thời T và N chưa có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản nên không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội: “Trộm cắp tài sản”. Do đó, ngày 04/12/2022, Công an huyện Tiên Du đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi: “Trộm cắp tài sản” đối với Nguyễn Bỉnh T và Nguyễn Bỉnh N, hình thức: Phạt tiền 2.500.000 đồng là phù hợp.

6. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Bỉnh T, Nguyễn Bỉnh N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2.Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 (thêm khoản 2 Điều 51 đối với bị cáo N); Điều 17; Điều 38 BLHS:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Bỉnh T 20 (Hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 21/10/2022.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Bỉnh N 15 (Mười lăm) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 21/10/2022.

- Áp dụng Điều 329 BLTTHS: Quyết định tạm giam các bị cáo Nguyễn Bỉnh T, Nguyễn Bỉnh N mỗi bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

3.Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 BLTTHS:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì thư hoàn trả mẫu vật sau giám định. Được niêm phong dán kín, trên mép dán có chữ ký niêm phong của giám định viên và dấu đỏ của Phòng PC – 09 Công an tỉnh Bắc Ninh.

+ Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 xe mô tô nhãn hiệu SYM ENGLE màu nâu, không gắn BKS, số máy: HB 048631; số khung VDNFM90B4X048631, loại xe 02 bánh từ 50-175cm3, dung tích xi lanh 85.

+ Trả lại cho bị cáo T số tiền 121.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 5 màu trắng – đỏ đã qua sử dụng, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 45 ngày 04/01/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiên Du).

4.Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án:

Các bị cáo Nguyễn Bỉnh T và Nguyễn Bỉnh N mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5.Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

Các bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 57/2023/HS-ST

Số hiệu:57/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiên Du - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về