Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯỚNG HÓA, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 21/2022/HS-ST NGÀY 05/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 5 năm 2022 tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 3 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 15/2022/HSST-QĐ ngày 14/4/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Đức V (tên gọi khác: S), sinh năm 1990 tại huyện H, tỉnh Q; Nơi cư trú: thôn Liên Hòa, xã Tân Liên, huyện H, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức N và bà Dương Thị V; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ 01; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 28/9/2021 Nguyễn Đức V (S) đang ở nhà thì có một thanh niên tên Q đến rủ đi chơi. Q điều khiển xe mô tô chở V, trên đường đi Q đưa cho V 230.000 đồng và nói “đi mua ma túy về sử dụng”, V đồng ý cầm tiền rồi cả hai đi đến thôn Tân Hữu, xã Tân Liên gặp và mua của một người thanh niên lạ mặt 06 viên ma túy với giá 200.000 đồng, còn 1 30.000đồng V đã trả lại cho Q. Số ma túy này được gói thành 02 chuỗi bao ni lon màu đen, V lấy số ma túy này bỏ vào ốp lưng điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 của mình rồi cất điện thoại vào túi quần Jean mình đang mặc. Sau đó cả hai đi đến khu vực nhà bỏ hoang ở thôn Tân Hào, xã Tân Liên để sử dụng ma túy. Đến nơi Q bảo V “đợi chút, đi có việc lát quay lại”, Q vừa đi được khoảng 02 phút thì V bị Công an xã Tân Liên, huyện H đến kiểm tra phát hiện trong túi quần Jean phía bên trái mà V đang mặc có 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc có gắn ốp lưng nhựa màu trong suốt, bên trong lớp ốp lưng nhựa nói trên có 02 chuỗi bao nilon màu đen, chuỗi thứ nhất chứa 02 viên nén hình trụ tròn, màu hồng; chuỗi thứ hai có 04 viên nén màu hồng, hình trụ tròn. Công an xã Tân Liên năng tiến hành lập biên bản vụ việc lúc 12 giờ 15 phút ngày 28/9/2021, tạm giữ 06 viên nén nói trên được niêm phong trong phong bì ký hiệu MT và tạm giữ 01 điện thoại di động Iphone 6 màu bạc có gắn ốp lưng nhựa màu trong suốt của V.

Kết luận giám định số 999/KLGĐ –KTHS ngày 05/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q kết luận: 06 viên nén màu hồng được niêm phòng trong phòng bì ký hiệu MT gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,6230gam; Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, STT 323 Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản cáo trạng số: 12/CT-VKSHH ngày 01 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Q đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự .

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Q đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Đức V từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; tịch thu, tiêu hủy đối với số lượng ma túy và bao gói sau giám định hoàn lại trong niêm phong mã số ký hiệu PS3 1908216 bên ngoài có chữ ký và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q;

Căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc, có gắn ốp nhựa màu trong suốt.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Đức V khai nhận: Bị cáo thừa nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình thực hiện như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố, bị cáo thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện H, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với kết quả điều tra và các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để khẳng định: Vào khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 28/9/2021, tại khu vực thôn Tân Hào, xã Tân Liên, huyện H, Nguyễn Đức V bị Công an xã Tân Liên, huyện H bắt quả tang khi đang cất dấu trong ốp lưng điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 ở trong túi quần Jean phía bên trái mà bị cáo V đang mặc gồm 06 viên nén màu hồng, hình trụ tròn nhằm mục đích sử dụng. Kết luận giám định số 999/KLGĐ –KTHS ngày 05/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q kết luận: 06 viên nén màu hồng được niêm phòng trong phòng bì ký hiệu MT gửi đến giám định là ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,6230gam. Hành vi trên của bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo có nhân thân tốt nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và căn cứ khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự, buộc bị cáo phải chấp hành tại cơ sở giam giữ.

Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Vì vậy cần tiếp tục thực hiện Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật.

[4]. Về xử lý vật chứng:

Đối với số lượng ma túy hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì mã số ký hiệu: PS3, mã số: PS3 1908216 có chữ ký của những người tham gia và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q và bao gói là vật cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị nên cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc, có gắn ốp nhựa màu trong suốt đã thu giữ của bị cáo Nguyễn Đức V trong quá trình điều tra nhưng không liên quan đến hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo nên căn cứ điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự để trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức V.

Vật chứng liên quan đến vụ án hiện đang được Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Q quản lý theo biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 01/3/2022.

[5]. Về các vấn đề khác: Đối với người thanh niên đã bán ma túy cho V, và thanh niên tên Q, quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch nên chưa có căn cứ xử lý theo quy định của pháp luật.

[6]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 38 Bộ luật hình sự;

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức V (Tên gọi khác: S) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức V 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng:

Tịch thu, tiêu hủy số lượng ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì ký hiệu PS3, mã số: PS3 1908216 có chữ ký của những người tham gia và hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q.

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Đức V 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 màu bạc, có gắn ốp lưng nhựa màu trong suốt, đã qua sử dụng được niêm phong trong phong bì ký hiệu ĐT, có chữ ký của những người tham gia và hình dấu của Công an xã Tân Liên.

Vật chứng hiện đang được Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Q quản lý theo biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 01/3/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H và Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Q.

3. Về án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Đức V phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

14
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 21/2022/HS-ST

Số hiệu:21/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hướng Hóa - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về