Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 206/2022/HSST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 206/2022/HSST NGÀY 14/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 197/2022/TLST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 197/2022/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Triệu Văn Q; sinh năm 1982 tại tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Xóm 2, xã Kim Định, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông:

Triệu Xuân Q, sinh năm 1946 và bà: Trần Thị T (đã chết); gia đình có 06 anh em, bị cáo là con thứ tư; Vợ: Mai Thị Bích Ph (đã ly hôn) và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ ngày 19-6-2022, chuyển tạm giam ngày 28-6-2022. ( Có mặt tại phiên tòa ).

2. Họ và tên: Trần Văn Đ; sinh năm 1983 tại tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Xóm 3, xã Ân Hòa, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: lớp 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Theo đạo thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn Th, sinh năm 1954 và bà: Vũ Thị L, sinh năm 1958; gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ ba; Vợ: Quách Thị X và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 26-8-2008, Tòa án nhân dân thành phố N1, tỉnh Ninh Bình xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (đã xóa án tích), ngày 30- 9-2011, TAND huyện P, tỉnh Q xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (đã xóa án tích); bị bắt, tạm giữ ngày 19-6-2022, chuyển tạm giam ngày 28- 6-2022. ( Có mặt tại phiên tòa ).

Ngưi làm chứng: Ông Hoàng Khắc Th và ông Hoàng Sỹ Th (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ 40 phút ngày 18-6-2022, tổ công tác Công an phường M, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực đường Quốc lộ 10, phường M, thành phố N phát hiện Triệu Văn Q điều khiển xe máy biển kiểm soát 35B2-610.58 chở theo Trần Văn Đ có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra; Q tự giác giao nộp từ túi quần bên phải cho tổ công tác 01 gói nilông màu trắng có đường kẻ trên mép màu đỏ, bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng (Q và Đ khai là Heroine mua về để cùng sử dụng). Tổ công tác đã thu giữ, niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Triệu Văn Q và Trần Văn Đ. Ngoài ra còn tạm giữ 01 chiếc điện thoại Samsung màu đen của Q, 01 chiếc điện thoại ViVo màu xanh và 01 xe máy của Đ.

Bản kết luận giám định số 894/KL-KTHS ngày 23-6-2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu bột dạng cục màu trắng trong 01 gói nilông màu trắng có đường kẻ trên mép màu đỏ trong phong bì thư gửi giám định là ma túy. Loại ma túy: Heroine. Khối lượng mẫu: 3,404 (ba phảy bốn trăm linh bốn) gam Tại Cơ quan điều tra, Triệu Văn Q, Trần Văn Đ đều khai nhận: Khoảng 18 giờ ngày 18-6-2022, Q gọi điện cho Đ rủ đi mua ma túy về cùng sử dụng, Đ đồng ý. Đến 19 giờ cùng ngày, Đ điều khiển xe máy biển kiểm soát 35B2- 610.58 đến đón Q tại khu vực cầu Đen, xã K, huyện Y, tỉnh Ninh Bình đi sang thành phố N. Đến khu vực thành phố N, do Q biết đường nên Đ để Q điều khiển xe máy. Khi đến một ngõ nhỏ trong khu dân cư ven đường Quốc lộ 10, thành phố N, Q dừng xe ở đầu ngõ (không nhớ rõ số ngõ) và bảo Đ đưa tiền để mua ma túy, Đ đưa cho Q 400.000 đồng. Q nhận tiền và góp thêm 3.000.000 đồng rồi đi bộ một mình vào trong ngõ. Đến một ngôi nhà (Q không nhớ rõ số nhà), Q mua ma túy qua lỗ cửa (không rõ người bán), người ở trong nhà nhận 3.400.000 đồng rồi đưa cho Q 01 gói ma túy. Q bỏ gói ma túy mua được vào túi quần bên phải đang mặc, đi bộ ra chỗ Đ, rồi cả hai đi tìm nơi sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ Bản Cáo trạng số 197/CT-VKSTPNĐ ngày 19-8-2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố các bị cáo Triệu Văn Q và Trần Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Ti phiên toà, các bị cáo Triệu Văn Q, Trần Văn Đ đã thành khẩn khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như nội dung bản cáo trạng đã truy tố là đúng người, đúng tội.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố các bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo Triệu Văn Q từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù; xử phạt bị cáo Trần Văn Đ từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo; căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo yên tâm cải tạo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Triệu Văn Q và Trần Văn Đ không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của các bị cáo Triệu Văn Q và Trần Văn Đ phù hợp với lời khai của người làm chứng, Kết luận giám định số 894/KL-KTHS ngày 23-6-2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 20 giờ 40 phút ngày 18-6-2022, tại khu vực đường Quốc lộ 10, phường M, thành phố N, các bị cáo Triệu Văn Q và Trần Văn Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 3,404 gam Heroine để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của ma túy là chất gây nghiện do nhà nước độc quyền quản lý, nhưng vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng, lỗi của các bị cáo là lỗi cố ý. Do đó, các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N là có căn cứ.

[3]. Xét vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo cùng nhau thống nhất thực hiện tội phạm nên là đồng phạm, bị cáo Q là người khởi xướng, rủ rê bị cáo Đ phạm tội đồng thời bỏ ra số tiền gấp nhiều lần bị cáo Đ và trực tiếp vào mua ma túy do đó xếp vai trò của bị cáo Q cao hơn bị cáo Đ.

3.1. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

3.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình, do đó các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). [4]. Về hình phạt:

4.1. Về hình phạt chính:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguyên nhân làm gia tăng các tệ nạn xã hội, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bản thân bị cáo Trần Văn Đ đã 02 lần bị kết án, đã được cải tạo và giáo dục nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân để cải tạo mình thành công dân tốt, sống có ích cho bản thân, cho gia đình và xã hội mà bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc để cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục các bị cáo nói riêng và đảm bảo công tác phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về hình phạt bổ sung:

Xét thấy các bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. 01 chiếc điện thoại Samsung màu đen, 01 chiếc điện thoại ViVo màu xanh và 01 xe máy biển kiểm soát 35B2-619.58 là tài sản của các bị cáo không phải là công cụ phương tiện phạm tội nên trả lại cho các bị cáo nhưng tạm giữ để bảo đảm thi hành án.

[6] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho các bị cáo, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo Triệu Văn Q và Trần Văn Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Các bị cáo Triệu Văn Q và Trần Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Triệu Văn Q 03 năm 09 tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 19-6-2022.

Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 19-6-2022.

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tch thu, tiêu hủy số ma túy có trong phong bì niêm phong số 894/KL-KTHS Trả lại bị cáo Triệu Văn Q 01 chiếc điện thoại Samsung màu đen, trả lại bị cáo Trần Văn Đ 01 chiếc điện thoại ViVo màu xanh và 01 xe máy biển kiểm soát 35B2-619.58 nhưng tạm giữ các tài sản trên để bảo đảm thi hành án (vật chứng có đặc điểm ghi trong biên bản giao nhận vật chứng ngày 29-8-2022).

4. Án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Các bị cáo Triệu Văn Q và Trần Văn Đ mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Các bị cáo Triệu Văn Q, Trần Văn Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 206/2022/HSST

Số hiệu:206/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về