Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 129/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 129/2021/HS-ST NGÀY 28/10/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 28 tháng 10 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y - tỉnh N, Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh N mở phiên tòa công khai để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 126/2021/HSST, ngày 14 tháng 10 năm 2021,theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:133/2021/QĐ-XXST-HS ngày 16/9/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Trung U (Tên gọi khác: Không); Giới tính: Nam;Sinh ngày 10 tháng 6 năm 1991 tại xã V, huyện Y, tỉnh N;Nơi cư trú: xóm 5, xã V, huyện Y, tỉnh N;Nghề nghiệp: Lao động tự do;Quốc tịch: Việt Nam;

Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;Trình độ học vấn: 9/12;Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, đoàn thể): Không;Họ tên cha: Trần Duy V(đã chết); Họ tên mẹ: Nguyễn Thị M, sinh năm 1956;Anh chị em ruột: có 02 người, bị cáo là con thứ hai trong gia đình;Vợ, con: Chưa có;Tiền án, tiền sự: Không;Nhân thân: Ngày 14/8/2015, bị Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh N xử phạt 03 (ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tháng về tội "Đánh bạc" tại bản án số 50/2015/HSST; Ngày 07/12/2015, bị Công an huyện Y, tỉnh N ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi "trộm cắp tài sản" theo quyết định số 05 ngày 7/12/2015; Ngày 14/9/2016, bị Tòa án tỉnh N xử phạt 27 tháng tù về tội "trộm cắp tài sản". Tổng hợp 03 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội "đánh bạc" tại bản án số 50/2015/HSST ngày 14/8/2015 của Tòa án nhân dân huyện Y, buộc bị cáo chấp hành cả 2 bản án là 30 tháng tù, tại bản án số 155/2016/HSPT ngày 14/9/2016. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 08/7/2018. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/9/2021 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh N.( Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

*Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Bà:Nguyễn Thị M, sinh năm 1956 ( Có mặt) Nơi cư trú: xóm 5, xã V, huyện Y, tỉnh N.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 31/8/2021, Trần Trung U điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, Exciter màu đen, biển kiểm soát 37P1- xxxxx đi từ nhà dọc theo Quốc lộ 7A đến xã D, huyện D, tỉnh N để hỏi mua ma túy. Khi đi trên đường Trần Trung U gọi điện thoại từ số 086997xxxx gọi đến số 0983312xxxx của người đàn ông tên T(không rõ nhân thân, lai lịch, địa chỉ) hỏi mua ma túy thì người này đồng ý bán ma túy cho Trần Trung U và hẹn giao dịch tại Cầu Đậu thuộc xã D, huyện D, tỉnh N. Khoảng 15 giờ 30 phút cùng ngày, khi Trần Trung U đang đứng tại Cầu Đậu thì người đàn ông tên T một mình đi đến gặp Trần Trung U và đưa cho Trần Trung U 25 viên ma túy dạng nén hình tròn, màu đỏ, Trần Trung U đưa cho người này số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) rồi cầm gói ma túy bỏ vào lỗ xạc điện thoại phía bên trái của yếm xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, Exciter màu đen, biển kiểm soát 37P1- xxxxx của Trần Trung U. Đến ngày 01/9/2021, Trần Trung U lấy 02 viên ma túy ra sử dụng, còn lại 23 viên ma túy Trần Trung U tiếp tục cất giấu tại lỗ xạc điện thoại phía bên trái của yếm xe mô tô, mục đích để sử dụng. Đến 16 giờ 15 phút ngày 02/9/2021, Trần Trung U điều khiển xe mô tô đi đến khu vực tại xóm 5 xã B, huyện Y thì bị Tổ công tác Công an xã Bảo Thành phát hiện, bắt quả tang, thu giữ niêm phong toàn bộ vật chứng theo quy định.

Tại bản kết luận giám định số 1276/KL-PC09 (Đ2-MT) ngày 06/9/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N kết luận: Mẫu viên nén hình tròn màu đỏ thu của Trần Trung U gửi tới giám định là ma túy (Methamphetamine). Số viên nén hình tròn màu đỏ thu giữ của Trần Trung U có tổng khối lượng là 2,245g (Hai phẩy hai trăm bốn mươi lăm gam) * Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) gói giấy bạc bên ngoài được bọc túi potylen màu trắng, bên trong có chứa 23 (hai mươi ba) viên ma túy (Methamphetamine) có tổng khối lượng là 2,245g (hai phẩy hai trăm bốn mươi lăm gam). Hội đồng đã lấy 05 (năm) viên ma túy có tổng khối lượng 0,5g (không phẩy năm gam) gửi giám định, 18 (mười tám) viên ma túy còn lại có tổng khối lượng 1,745g (một phẩy bảy trăm bốn mươi lăm gam) được niêm phong lại, hiện đã được chuyền giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh N sự chờ xử lý.

- 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, Exciter màu đen, số khung RLCUG1210MY030316, số máy 593159, biển kiểm soát 37P1-xxxxx, đã qua sử dụng hiện nay đã được chuuyển giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh N chờ xử lý.

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, màu xám, số IMEI 355731075938903, bên trong gắn sim số 086997xxxx, đã qua sử dụng hiện hiện đã được chuyền giao cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Y, tỉnh N sự chờ xử lý.

Tại bản cáo trạng số: 139/CT-VKS-YT, ngày 12 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh N truy tố Trần Trung U về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh N giữ nguyên quyết định truy tố đối với Trần Trung U và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51của BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Trần Trung U từ 21 tháng đến 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Do điều kiện kinh tế gia đình bị cáo khó khăng, nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Trần Trung U.

+/Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của BLHS, điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

-Tịch thu tiêu hủy 18 (mười tám) viên ma túy còn lại có tổng khối lượng 1,745g (một phẩy bảy trăm bốn mươi lăm gam).

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, màu xám, số IMEI 355731075938903, bên trong gắn sim số 086997xxxx, đã qua sử dụng thu của Trần Trung U.

Tuyên trả lại 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, Exciter màu đen, số khung RLCUG1210MY030316, số máy 593159, biển kiểm soát 37P1- xxxxx cho bà Nguyễn Thị M ( mẹ bị cáo Trần Trung U).

Trả lại 01 giấy đăng ký xe mô tô YAMAHA, Exciter màu đen, số khung RLCUG1210MY030316, số máy 593159, biển kiểm soát 37P1-xxxxx mang tên Trần Trung U cho bà Nguyễn Thị Mỹ.

+/ Về án phí: Buộc bị cáo phải nộp án phí theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không tranh luận đối đáp gì với bản luận tội của đại diện viện kiểm sát. Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đề nghị hội đồng xét xử, xem xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Các quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên;Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ buộc tội: Vào hồi 16 giờ 15 phút ngày 02/9/2021, khi tổ công tác Công an xã Bảo Thành, huyện Y đang tuần tra tại khu vực xóm 5, xã B, huyện Y thì phát hiện, bắt quả tang Trần Trung U đang tàng trữ tại lỗ cắm sạc điện thoại phía bên trái của yếm xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, Exciter màu đen, biển kiểm soát 37P1- xxxxx do Trần Trung U điều khiển 23 (Hai mươi ba) viên nén hình tròn màu hồng nghi là ma túy, có tổng khối lượng 2,245g (Hai phẩy hai trăm bốn mươi lăm gam). Cơ quan điều tra đã tiến hành lấy mẫu trưng cầu giám định, kết quả giám định đã khẳng định số ma túy thu giữ của Trần Trung U là ma túy (Methamphetamine). Quá trình điều tra Trần Trung U khai đã mua số ma túy bị thu giữ là do bị cáo mua của một người đàn ông T(không rõ nhân thân, lai lịch, địa chỉ) tại Cầu Đậu thuộc xã D, huyện D, tỉnh N với mục đích là để sử dụng cho cá nhân lúc cần thiết.

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay hoàn toàn phù hợp với lời khai mà bị cáo đã khai nhận trong quá trình điều tra, phù hợp với biên bản bắt người trong trường hợp quả tang,vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.Trên cơ sở điều tra và các chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, tỉnh N truy tố Trần Trung U về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người đúng tội, đúng qui định của pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo: Đây là một vụ án nghiêm trọng. Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy do Trần Trung U thực hiện là rất nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự liều lĩnh xem thường pháp luật. Bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, năng lực hành vi, chắc chắn bị cáo hiểu được tác hại của ma túy, nhà nước cấm mọi hành vi sản xuất, mua bán,vận chuyển, tàng trữ chất ma túy, nếu người nào vi phạm bắt được sẽ bị xử lý nghiêm minh. Trần Trung U đã từng bị xét xử về tội Đánh bạc, tội Trộm cắp tài sản, bị xử lý hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản. Lẽ ra bị cáo phải lấy đó để làm bài học cho mình, nhưng chỉ vì học đòi, theo bạn bè xấu chơi bời dẫn đến nghiện ma túy, nên bị cáo đã bất chấp pháp luật đã tàng trữ ma túy để phục vụ cá nhân lúc lên cơn nghiện.Vì vậy cần xử phạt hình phạt nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, để cải tạo, giáo dục bị cáo, qua đó để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật, từ bỏ con đường phạm tội, cố gắng cải tạo trở thành con người có ích cho xã hội và gia đình, đồng thời thực hiện nhiệm vụ phòng chống tội phạm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

Do bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS, nên cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[5] Trần Trung U khai số ma túy bị thu giữ là do bị cáo mua của một người đàn đàn ông tên Tam (không rõ nhân thân, lai lịch, địa chỉ) tại Cầu Đậu thuộc xã D, huyện D, tỉnh N. Cơ quan điều tra không xác định được danh tính, địa chỉ của người bán ma túy cho Trần Trung U, nên chưa có cơ sở để xử lý là đúng.

[6]Về hình phạt bổ sung: Do điều kiện hoàn cảnh của bị cáo khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo qui định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

[7] Xử lý vật chứng: Quá trình điều tra thu giữ của Trần Trung U 23 viên ma túy Methamphetamine có tổng khối lượng là 2,245 gam. Cơ quan điều tra đã dùng đã lấy 05 (năm) viên có khối lượng 0,5g (không phẩy năm gam) để làm mẫu trung cầu giám định ( Mẫu gửi giám định không hoàn lại), 18 (mười tám) viên ma túy còn lại có tổng khối lượng 1,745g (một phẩy bảy trăm bốn mươi lăm gam) được niêm phong hiên nay đã chuyển cho chi cục thi hành án dân sự huyện yên Thành quản lý. Đây là vật chứng của vụ án, là chất cấm, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Ngoài ra cơ quan điều tra còn thu giữ của Trần Trung U 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, Exciter màu đen, số khung RLCUG1210MY030316, số máy 593159, biển kiểm soát 37P1-xxxxx, đã qua sử dụng; 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6S Plus, màu xám, số IMEI 355731075938903, bên trong gắn sim số 086997xxxx, đã qua sử dụng. Xét thấy chiếc điện thoại là phương tiện bị cáo dùng liên lạc để mua ma túy, cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước. Đối với chiếc xe mô tô bị cáo đã dùng làm phương tiện để đi ma túy ( Toàn bộ giấy tờ xe đều mamg tên Trần Trung U), lẽ ra cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước. Nhưng xét thấy chiếc xe mô tô này là tài sản của bà Nguyễn Thị M( mẹ của bị cáo Trần Trung U) bà M chỉ cho bị cáo đứng tên để tham gia giao thông, không thuộc quyền sở hữu của bị cáo, khi bị cáo lấy chiếc xe này đi mua ma túy bà M không biết, nay bà M yêu cầu được trả lại là có cơ sở, cần chấp nhận tuyên trả lại chiếc xe mô tô trên cho bà Nguyễn Thị M.

Hiện nay Cơ quan CSĐT Công an huyện Y, tỉnh N đang giữ 01 giấy đăng ký của chiếc xe mô tô nói trên mang tên Trần Trung U. Do xe mô tô được tuyên trả lại cho chủ sở hữu, nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Y, tỉnh N phải có nghĩa vụ giao lại giấy Đăng ký của chiếc xe mô tô nói trên cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Y để Chi cục thi hành án dân sự huyện Y giao lại cho bà Nguyễn Thị Mỹ.

[8] Án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo quy định của Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

-Xử phạt: Bị cáo Trần Trung U 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo (Ngày 02/9/2021).

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư được niêm phong dán kín, trên mép dán có đầy đủ chữ ký của Hội đồng tham gia niêm phong, chữ ký của bị cáo Trần Trung U bên trong có chứa 18 ( mười tám) viên ma túy tổng hợp có khối lượng 1,745gam và võ giấy niêm phong ban đầu thu giữ của Trần Trung U.

Tịch thu hóa giá sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động NOKIA màu đen, số seri 353161114808689, gắn thẻ som 0343 288914 đã qua sử dụng thu giữ của Trần Trung U.

Trả lại cho bà Nguyễn Thị M ( mẹ đẻ Trần Trung U) 01(một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, Exciter màu đen, số khung RLCUG1210MY030316, số máy 593159, biển kiểm soát 37P1-xxxxx, đã qua sử dụng.

Những vật chứng nêu trên đã được Cơ quan CSĐT Công an huyện Y chuyển cho chi Cục thi hành án dân sự huyện Y theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 15/10/2021 và phiếu nhập kho số: NK 007; NK 008 ngày 15/10/2021.

Cơ quan CSĐT Công an huyện Y, tỉnh N phải có nghĩa vụ giao lại 01 giấy đăng ký của chiếc xe mô tô chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, Exciter màu đen, số khung RLCUG1210MY030316, số máy 593159, biển kiểm soát 37P1-xxxxx mang tên Trần Trung U cho Chi cục thi hành án dân sự huyện Y để Chi cục thi hành án dân sự huyện Y tiến hành giao lại cho bà Nguyễn Thị Mỹ.

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Buộc bị cáo Trần Trung U phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt, được quyền kháng cáo lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

9
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 129/2021/HS-ST

Số hiệu:129/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về