Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 127/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 127/2021/HS-ST NGÀY 11/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 03 năm 2021, tại trụ sở TAND Thành phố B xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số : 26/ 2021/TLST-HS ngày 15/01/2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2021/QĐXXST-HS ngày 24/02/2021 đối với các bị cáo:

- Trần Văn Tào L1, sinh năm 1992 tại H. Hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Tổ 2, Khu phố 4C, phường T, Thành phố B, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Văn H(còn sống) và bà Đỗ Thị B(Còn sống); Có vợ: Nguyễn Trịnh Minh C, sinh năm 1996, chưa có con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03/08/2020, hiện đang bị tạm giam tại trại giam Công an tỉnh Đ, có mặt.

- Phạm Duy Đ1, sinh năm 1995 tại tỉnh Đ. Hộ khẩu thường trú: Thôn 4, xã Lộc Bắc, huyện B, tỉnh Đ. Nơi cư trú: Không có nơi cư trú nhất định. Nghề nghiệp: Phụ xe; Trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Phạm Duy N (còn sống) và bà Vũ Thị C (Còn sống);Tiền án: Có 03 tiền án, cụ thể: Ngày 25/6/2014, bị Tòa án nhân dân Thành phố B, tỉnh Đ xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”; Ngày 10/10/2015 Đ1 thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và bị Tòa án nhân dân Thành phố B xử phạt 08 (tám) tháng tù vào ngày 28/12/2015; Ngày 29/11/2017 Đ1 thực hiện hành vi trộm cắp tài sản và bị Tòa án nhân dân Thành phố B xử phạt 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù vào ngày 17/04/2018. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/05/2019; Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03/08/2020, hiện đang bị tạm giam tại trại giam Công an tỉnh Đ, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 03/8/2020, Đ1 điều khiển xe mô tô biển số 60C2-xxxxx đến nhà L1 tại hẻm 5, tổ 2, khu phố 4C, phường T, Thành phố B, tỉnh Đ. Do không có tiền nên L1 nhờ Đ1 đi mua ma túy về sử dụng, Đ1 đồng ý. Đ1 điều khiển xe mô tô chở L1 đến khu vực Cảng ICD, phường Long Bình, Thành phố B, Tỉnh Đ gặp đối tượng tên D ( không rõ lai lịch) để mua ma túy. Đ1 mua của D 01 gói ma túy với giá 4.500.000đ (Bốn triệu năm trăm ngàn đồng) và thỏa thuận trả tiền cho D sau. Sau khi mua ma túy, Đ1 đưa gói ma túy cho L1 cất giữ và thống nhất cả hai góp tiền trả cho D và cùng chia nhau ma túy để sử dụng. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, Đ1 điều khiển xe mô tô chở L1 đang cầm gói ma túy trên trong lòng bàn tay phải về đến phía trước nhà L1 thù bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an Thành phố B kiểm tra phát hiện và bắt giữ L1 và Đ1.

* Vật chứng thu giữ:

- 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong, có chữ ký của Trần Văn Tào L1 và Phạm Duy Đ1, có hình dấu tròn của Công an phường Trảng Dài.

- 01 xe mô tô hiệu Honđa Vision biển số 60C2-xxxxx, Đ1 sử dụng chở L1 đi mua ma túy, qua xác minh là xe của chị Nguyễn Thị Hoa H, chị H cho Đ1 mượn và không biết Đ1 sử dụng vào việc phạm tội nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại xe mô tô cho chị H ( Bút lục 03,04, 77, 85).

*Tại Kết luận giám định số 1571/KLGĐ-PC09 ngày 10/08/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự (PC09) Công an tỉnh Đ đã kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 8,7384 gam, loại:

Methamphetamine ( bút lục số 08).

Tại cáo trạng số 52/CT/VKSBH-HS ngày 07/01/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Phạm Duy Đ1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g, o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Truy tố bị cáo Trần Văn Tào L1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Tại phiên tòa các bị cáo trình bày: Các bị cáo đồng ý với bản cáo trạng Viện kiểm sát truy tố và mục đích các bị cáo mua ma túy về để sử dụng. Bị cáo Đ1 khai xe mô tô hiệu Honđa Vision biển số 60C2-xxxxx là của bạn gái tên H, khi bị cáo mượn xe thì H không biết bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại xe cho chị H. Ngoài ra các bị cáo không trình bày gì thêm.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Phạm Duy Đ1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g, o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Tuyên bị cáo Trần Văn Tào L1 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Xét về vai trò của từng bị cáo: Trong vụ án này bị cáo L1 là người khởi xướng và rủ rê bị cáo Đ1 mua ma túy về sử dụng. Bị cáo Đ1 có vai trò giúp sức tích cực.

- Xét về nhân thân: Bị cáo L1 không có tiền án, tiền sự; Bị cáo Phạm Duy Đ1 có nhân thân xấu vì bị cáo đã bị xét xử nhiều lần về tội “ Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Bị cáo Đ1 phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.Tuy nhiên tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.

- Về mức hình phạt: Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Trần Văn Tào L1 từ 06 (sáu) năm đến 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù; Xử phạt bị cáo Phạm Duy Đ1 từ 06 (sáu) năm đến 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, đề nghị Tòa án nhân dân thành phố B tuyên: Tịch thu tiêu huỷ số lượng ma túy còn lại sau giám định;

- Đối với đối tượng bán ma túy cho L1 và Đ1 do không rõ lai lịch cơ quan cảnh sát điều tra thành phố B tiếp tục làm rõ và xử lý sau.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra công khai và kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của các bị cáo .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua quá trình điều tra và tại phiên tòa, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ và các chứng cứ khác, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi và quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đúng quy định của pháp luật.

[2] Thực tế có cơ sở chứng minh, vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 03/08/2020, tại khu vực hẻm 5, khu phố 4C, phường Trảng Dài, thành phố B, tỉnh Đ, các bị cáo Trần Văn Tào L1 và Phạm Duy Đ1 có hành vi tàng trữ trái phép 8,7384 gam ma túy, loại Methamphetamine thì bị Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công thành phố B phát hiện bắt quả tang. Bị cáo Phạm Duy Đ1 đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý, bị cáo Đ1 phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm nên có cơ sở kết luận hành vi của bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” vi phạm quy định tại điểm g, o khoản 2 điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 và bị cáo Trần Văn Tào L1 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” vi phạm quy định tại điểm g khoản 2 điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, cấm mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma túy, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nòi giống và gây mất trật tự trị an cho xã hội.

[4] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B thì thấy: Trong vụ án này bị cáo L1 là người khởi xướng và rủ rê bị cáo Đ1 mua ma túy về sử dụng; Bị cáo Đ1 là người tích cực thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo L1 chưa có tiền án, tiền sự; Bị cáo Đ1 phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm; Tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Trong vụ án này các bị cáo phạm tôi mang tính đồng phạm song ở mức độ giản đơn. Về mức hình phạt cần xử các bị cáo mức hình phạt bằng nhau. Xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục các bị cáo trở thành công dân có ý thức tuân thủ pháp luật.

[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự : Tịch thu tiêu huỷ số lượng ma túy còn lại sau giám định tại phong bì niêm phong số 1571/PC09-GĐMT ngày 10/08/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ.

[6] Về án phí: Cần buộc các bị cáo chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

 1. Căn cứ các điểm g, o khoản 2 Điều 249 (Chỉ áp dụng điểm o đối với bị cáo Phạm Duy Đ1); điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; của Bộ luật hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi bổ sung năm 2017):

- Tuyên bố các bị cáo Trần Văn Tào L1 và Phạm Duy Đ1 phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Trần Văn Tào L1 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/8/2020.

- Xử phạt bị cáo Phạm Duy Đ1 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/8/2020.

2. Về các biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự :

- Tịch thu tiêu huỷ số lượng ma túy còn lại sau giám định tại phong bì niêm phong số 1571/PC09-GĐMT ngày 10/08/2020 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ (Vật chứng Chi cục thi hành án dân sự Thành phố B đang quản lý được thể hiện tại biên bản giao nhận lập ngày 11/03/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Đ).

3. Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Buộc các bị cáo phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 127/2021/HS-ST

Số hiệu:127/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về