Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 01/2023/HS-ST NGÀY 10/01/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 116/2022/TLST-HS ngày 22 /12/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 123/2022/QĐXXST-HS ngày 29/12/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1995; Nơi sinh: K, tỉnh N; HKTT và cư trú hiện tại: xóm 8B, xã C, huyện K, tỉnh N; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá:12/12.

Bố đẻ: Nguyễn Văn H1 ( tên gọi khác Nguyễn Xuân H1), sinh năm 1956 (đã chết năm 2013); Mẹ đẻ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1956; hiện đang cư trú tại xóm 8B, xã C, huyện K, tỉnh N; Gia đình có 07 anh chị em, bị cáo là con thứ 07; Vợ: Lê Thị H2, sinh năm 1996( đã ly hôn); Con: có 02 con, lớn sinh năm 2018, nhỏ nhất sinh năm 2020 Tiền án, Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ ngày 14/9/2022, chuyển tạm giam ngày 15/9/2022 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh N. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Mai Hùng Th và ông Lê Hồng H, Luật sư của Công ty Luật TNHH M; địa chỉ: B2 Roman Plaza T, Đại Mỗ, N, H. Có mặt ông Th, vắng mặt ông H

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Cao Văn T1, sinh năm 1999;

địa chỉ: xóm 4, xã Kim Đông, huyện K, tỉnh N (Vắng mặt)

- Người làm chứng: Anh Dương Văn H3 (Vắng mặt).

- Người chứng kiến: Anh Phạm Mạnh H4 (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biễn tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 14/9/2022 tại đoạn đường trục trước cổng quán cà phê câu cá thuộc phố P, thị trấn P, huyện K, Tổ công tác Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh N và Công an thị trấn P kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn H đang cầm trên tay 02 gói ma túy.

Thu giữ của H 02 gói nhỏ gồm: 01 gói được gói bên ngoài bằng giấy trắng có in dòng kẻ và 01 gói được gói bên ngoài bằng giấy trắng có in chữ màu đen niêm phong trong phong bì ký H3 Q1; 01 điện Tại nhãn H3 Sam sung màu đen đã cũ niêm phong trong phong bì ký H3 Q2; 01 xe mô tô nhãn H3 Exciter màu đen Biển kiểm soát 35B2-xxxxx.

Tiến hành mở niêm phong 02 gói nhỏ thu giữ của H bên trong đều có chứa chất bột dạng cục màu trắng có khối lượng M1 là 0,1709 gam, M2 có khối lượng 0,0524 gam gửi trưng cầu giám định.

Kết luận giám định số 684/KL-KTHS-MT ngày 21/9/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh N: Kết luận mẫu chất bột dạng cục mầu trắng ký H3 M1 là 0,1709 gam, ký H3 M2 có khối lượng 0,0524 gam đều là ma túy, loại Heroine.

Tại cơ quan điểu tra Nguyễn Văn H khai nhận: là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Trưa ngày 14/9/2022, H điều khiển xe mô tô Biển kiểm soát 35B2-xxxxx nhãn H3 Exciter mượn của anh Cao Văn T1 từ nhà đến khu vực bến xe khách K thuộc phố T, thị trấn P, huyện K, tỉnh N. Tại đây H gặp hỏi và mua được 02 gói ma túy của một người đàn ông không quen biết với giá 300.000 đồng. Sau đó điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng thì bị công an phát hiện, bắt quả tang.

Quá trình điều tra cơ quan công an đã trả xe mô tô nhãn H3 Exciter màu đen Biển kiểm soát 35B2-xxxxx cho anh Cao Văn T1. Chuyển đến kho vật chứng của Chi cục THADS huyện K gồm: 01 phong bì niêm phong trên phong bì ghi số 684/KL-KTHS-MT mẫu vật hoàn trả sau giám định bên trong gồm M1= 0,1146 gam; M2= 0,0264 gam đều là ma túy loại Heroine cùng toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi ký H3 Q1, bên trong có 02 mảnh giấy gói ban đầu, ký H3 B. 01 điện Tại di động nhãn H3 Samsung màu đen và 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu đựng trong 01 phong bì niêm phong để giải quyết cùng vụ án.

Tại cáo trạng số 05/CT-VKS ngày 21/12/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh N đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại Điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố trong cáo trạng và đề nghị hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 12 đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/092022.

- Áp dụng Điều 47 BLHS năm 2015; Điều 106 và Điều 136 BLTTHS năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong trên phong bì ghi số 684/KL- KTHS-MT mẫu vật hoàn trả sau giám định bên trong gồm M1= 0,1146 gam; M2= 0,0264 gam đều là ma túy loại Heroine cùng toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi ký H3 Q1, bên trong có 02 mảnh giấy gói ban đầu, ký H3 B và 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu.

+ Trả lại cho bị cáo 01 điện Tại di động nhãn H3 Samsung màu đen.

+ Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến bào chữa, không có ý kiến tranh luận, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

Người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa có quan điểm: không phản đối tội danh của bị cáo mà Kiểm sát viên đề xuất. Về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo mới nghiện ma túy, nhân thân tốt phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, có bố là thương binh do vết thương tái phát nên đã chết, là lao động chính nuôi mẹ già và hai con nhỏ; xử phạt bị cáo ở mức thấp nhất do kiểm sát viên đề xuất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dungvụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về Tội danh của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H khai nhận: do nhu cầu sử dụng ma túy; Trưa ngày 14/9/2022bị cáo mượn anh T1 xe mô tô Exciter Biển kiểm soát 35B2-xxxxx từ nhà đến khu vực bến xe khách K thuộc phố T, thị trấn P, huyện K, tỉnh N; bị cáo gặp hỏi và mua được 02 gói ma túy của một người đàn ông không quen biết với giá 300.000 đồng. Sau đó, H cầm hai gói ma túy đi tìm nơi sử dụng. Khi đến phố P, thị trấn P, huyện K thì bị công an phát hiện, bắt quả tang.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa còn phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 30 phút ngày 14/09/2022, lời khai của người làm chứng và vật chứng thu giữ được là 02 gói Heroine có tổng khối lượng 0,2233gam.

Từ những chứng cứ trên có đủ cơ sở kết luận: Hồi 12 giờ 30 phút ngày 14/09/2022, tại khu vực phố phố P, thị trấn P, huyện K, bị cáo Nguyễn Văn H có hành vi cất giữ trái phép trong người 0,2233gam ma túy loại Heroine để sử dụng cho bản thân. Hành vi của Nguyễn Văn H đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp “Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 - Bộ luật Hình sự.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma tuý.

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:….

c. Heroine, cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” Như vậy Viện Kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Về hình phạt đối với bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội; xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội và còn là nguyên nhân nảy sinh các tội phạm về các tệ nạn xã hội khác; hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm.

Tình tiết tăng nặng: bị cáo Nguyễn Văn H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tình tiết giảm nhẹ: tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, có bố là thương binh người có công với cách mạng là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, buộc bị cáo phải cách ly đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích.

Khi lượng hình phạt xét thấy bị cáo mới nghiện ma túy, nhân thân tốt phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, là lao động chính nuôi mẹ già và hai con nhỏ để giảm nhẹ một phần hình phạt tù đối với bị cáo.

Bị cáo không có tài sản và thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung tại khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

[3] Về nguồn gốc Heroine: Nguyễn Văn H khai mua của một người đàn ông không quen biết tại khu vực thuộc phố Trì Chính, thị trấn P, huyện K. Bản thân Nguyễn Văn H không biết tên tuổi địa chỉ của người này, nếu gặp lại cũng không nhận dạng được. Do vậy Cơ quan CSĐT - Công an huyện K chưa đủ căn cứ để xử lý. .

[4] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 phong bì niêm phong trên phong bì ghi số 684/KL-KTHS-MT mẫu vật hoàn trả sau giám định bên trong gồm M1= 0,1146 gam; M2= 0,0264 gam đều là ma túy loại Heroine cùng toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi ký H3 Q1, bên trong có 02 mảnh giấy gói ban đầu, ký H3 B và 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu. Đây là những vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 điện Tại di động nhãn H3 Samsung màu đen là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến vụ án cần trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 xe mô tô nhãn H3 Exciter màu đen Biển kiểm soát 35B2- xxxxx, đăng ký xe mang tên Trần Minh Đ, sinh năm 1999 trú tại xóm 1, xã Q, huyện K, tỉnh N, quá trình điều tra xác định anh Đ đã bán chiếc xe trên cho anh Cao Văn T1 sinh năm 1999 trú tại xóm 4, xã Kim Đông, huyện K, tỉnh N với giá 22.000.000 đồng. Ngày 14/9/2022, anh T1 cho H mượn xe nhưng không biết việc H sử dụng để đi mua ma túy nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K đã trả lại chiếc xe trên cho anh T1 là phù hợp.

[5] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Cơ quan điều tra Công an huyện K; Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, tỉnh N: Trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng do đã thực hiện đều hợp pháp.

[6] Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án 1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý"

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 12 ( mười hai) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày 14/09/2022.

3. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong trên phong bì ghi số 684/KL-KTHS-MT mẫu vật hoàn trả sau giám định bên trong gồm M1= 0,1146 gam; M2= 0,0264 gam đều là ma túy loại Heroine cùng toàn bộ vỏ bao gói niêm phong; 01 phong bì niêm phong bên ngoài ghi ký H3 Q1, bên trong có 02 mảnh giấy gói ban đầu, ký H3 B và 01 vỏ phong bì niêm phong ban đầu.

Trả lại cho bị cáo 01 điện Tại H3 Samsung màu đen ( chi tiết như trong biên bản bàn giao vật chứng giữa công an huyện K vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện K ngày 21/12/2022)

4. Án phí: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm .

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền Tả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự . Thời hạn thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người bào chữa cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 01/2023/HS-ST

Số hiệu:01/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về