Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (ma túy tổng hợp hàng đá) số 21/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 21/2021/HS-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 754/2020/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 777/2020/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 12 năm 2020, đối với:

- Bị cáo: Phan Văn T, sinh năm 1988 tại tỉnh C; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp A, xã X, huyện C, tỉnh C; nơi cư trú: Tổ 7, khu phố M, phường P, thành phố B, tỉnh Đ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 04/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Hoàng G và bà Võ Thị H; gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; vợ bị cáo tên Nguyễn Thị L, có hai con tên Phan Nhựt H1 và Phan ThảoV.

Tiền án: Không; tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 29/7/2020, chuyển tạm giam theo Lệnh số 977 ngày 07/8/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố B; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Văn T là người sử dụng trái phép chất ma túy. Lúc 23 giờ ngày 28/7/2020, T điều khiển xe mô tô biển số 37B2-xxxxx đi đến khu vực cầu Bà Bướm thuộc khu phố M, phường P, thành phố B, mua của người tên T1 (không rõ lai lịch) 02 gói ma túy tổng hợp hàng đá với giá 400.000đ (bốn trăm nghìn đồng) để sử dụng. Sau khi mua được ma túy, T cất giấu vào trong túi quần rồi điều khiển xe 37B2-xxxxx về nhà trọ không số thuộc Tổ 7, khu phố M, phường P, thành phố B do chị Nguyễn Thị Cẩm N1 (bạn gái T) và chị Nguyễn Thị N2 (chị gái N1) thuê trọ. Khi đến nơi, do N1 đi làm không có ở nhà nên T vào phòng của N1 ngủ.

Đến khoảng 03 giờ 20 phút ngày 29/7/2020, khi T đang cất giấu 02 gói ma túy dưới nệm trong phòng ngủ ở nhà trọ thuộc địa chỉ nêu trên thì bị Công an phường P kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B xử lý.

Vật chứng gồm:

- 02 (hai) gói nilon hàn kín bên trong có chứa tinh thể màu trắng đã được niêm phong có chữ ký của T và dấu mộc của Công an phường P, thành phố B.

- Xe mô tô biển số 37B2-xxxxx, số khung: không có, số máy:

70200007. Qua xác minh tại Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đ, xe mô tô biển số 37B2-xxxxx, số khung: 100Y-016273, số máy: FMG3- 10334925 do bà Hoàng Thị H2 (sinh năm 1977, thường trú: K11, thị trấn G, huyện Q, tỉnh Nghệ An) đứng tên chủ sở hữu. Do số máy, số khung của xe mô tô đã thu giữ và kết quả xác minh không trùng khớp, chưa làm rõ được nguồn gốc xe mô tô biển số 37B2-xxxxx nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B tách ra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

Tại Kết luận giám định số 1527/KLGĐ-PC09 ngày 04/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ đã kết luận: “Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,1915gam, loại Methamphetamine” .

Tại Cáo trạng số: 27/CT-VKSBH ngày 23/12/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đ đã truy tố bị cáo Phan Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c, Khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đ giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

- Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 249 và Điểm s, Khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Phan Văn T từ 01(một) năm đến 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa, bị cáo Phan Văn T thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định, biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Vào lúc 03 giờ 20 phút ngày 29/7/2020, tại nhà không số thuộc Tổ 7, khu phố M, phường P, thành phố B, tỉnh Đ, Phan Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,1915 gam ma túy loại Methamphetamine thì bị Công an phường P kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

- Xét tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, Nhà nước luôn tuyên truyền về tác hại của ma túy, ma túy nguy hại trực tiếp đến bản thân người dùng và là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Bị cáo là người đã trưởng thành, có đủ khả năng để nhận thức tác hại của ma túy nhưng để thỏa mãn nhu cầu riêng của bản thân, bị cáo vẫn tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng là phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Phan Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c, Khoản 1, Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản Cáo trạng số 27/CT-VKSBH ngày 23/12/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Đ và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Phan Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo các điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại Điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Phan Văn T để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của pháp luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Về các vấn đề khác:

Đối với đối tượng tên T1 (chưa rõ lai lịch, địa chỉ) có hành vi mua bán ma túy cho T, Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp.

Đối với chị Nguyễn Thị N2 và chị Nguyễn Thị Cẩm N1 là hai người ở tại nhà trọ nơi bị cáo T bị bắt giữ, chị N2 và chị N1 không biết việc bị cáo T tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.

[4] Về vật chứng:

Vật chứng được kết luận là ma túy thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy toàn bộ số lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố B thu giữ sau giám định.

Xe mô tô biển số 37B2-xxxxx, số khung: không có, số máy: 70200007. Qua xác minh tại Phòng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Đ xác định, số khung của xe mô tô đã thu giữ và kết quả xác minh không trùng khớp, chưa làm rõ được nguồn gốc xe mô tô biển số 37B2-xxxxx nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B tách ra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[5] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Phan Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[6] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên, bị cáo tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị mức hình phạt là phù hợp quan điểm Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

- Đối với phần trình bày của bị cáo tại phiên tòa được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 249, Điểm s, Khoản 1, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Phan Văn T 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù; thời hạn tù được tính từ ngày 29 tháng 7 năm 2020.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điểm c, Khoản 1, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số lượng ma túy còn lại sau giám định là 01 (một) gói niêm phong số 1527/KLGĐ-PC09 ngày 04/8/2020.

Các vật chứng này hiện đang lưu giữ tại Chi Cục Thi hành án Dân sự thành phố B, tỉnh Đ theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 19 tháng 11 năm 2020.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Phan Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;

Bị cáo Phan Văn T được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (ma túy tổng hợp hàng đá) số 21/2021/HS-ST

Số hiệu:21/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về