Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 08/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 08/2021/HS-ST NGÀY 10/03/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 10 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Tam Quan, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 11/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 02 năm 2021 đối với:

Bị cáo: Nguyễn Tùng L, sinh ngày 22/11/1991; ĐKHKTT: Thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đắc H (đã chết) và bà Vũ Thị Thúy V; có vợ là Phùng Thị H (đã ly hôn) và có 01 con; tiền sự: 01, Quyết định số: 06/QĐ-TA ngày 19/5/2017 Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 18 (mười tám) tháng, ngày 16/6/2019 chấp hành xong, tiền án: Không; Nhân thân: Bản án số: 85/2009/HS- PT ngày 25/9/2009 Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 01 (một) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 (hai) năm về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ, Quyết định số: 43/QĐ-XPHC ngày 02/5/2012, Công an huyện Tam Đảo xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau, ngày 04/5/2012 chấp hành xong; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/11/2020, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Văn S, sinh năm 1996; trú tại: Tổ dân phố Đ, thị trấn H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, vắng mặt.

2. Bà Vũ Thị Thúy V, sinh năm 1959; trú tại: Thôn Đ, xã H, huyện T, tỉnh Vĩnh Phúc, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 15/11/2020, Nguyễn Tùng L đang ở nhà thì Nguyễn Văn S (bạn nghiện, L không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) gọi điện từ số 0877.015.xxx đến số 0825.234.xxx của L, S hỏi mua 1.000.000đ tiền ma túy đá và ma túy tổng hợp, L đồng ý và hẹn S đến khu vực đường liên thôn gần cổng sân Golf Tam Đảo, thôn L, xã Hồ Sơn, huyện Tam Đảo. L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS: 29-xxxxx đến điểm hẹn, S đưa cho L số tiền 1.000.000đ (gồm 02 tờ tiền mệnh giá 500.000đ), L cầm tiền ở tay phải, lấy ma túy ở túi quần đưa cho S, S chưa kịp cầm gói ma túy thì Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Đảo phát hiện, bắt quả tang, L sợ bị bắt quả tang nên ném 02 gói ma túy xuống mặt đường.

Vật chứng thu giữ: Thu giữ dưới đất tại vị trí phía trước L đang đứng 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể dạng đá màu trắng và 01 túi nilon bên trong có 03 viên nén màu hồng, niêm phong ký hiệu M1; thu tại túi quần bên phải phía trước của L 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể dạng đá màu trắng và 01 viên nén màu hồng, niêm phong ký hiệu M2; số tiền 1.000.000đ, niêm phong ký hiệu T1; 01 xe mô tô BKS: 29-xxxxx, 01 điện thoại di động Nokia màu xanh và 01 điện thoại di động Nokia màu xanh đen.

Tại Kết luận giám định số: 2945/KLGĐ ngày 19/11/2020 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc, kết luận:

1. Tinh thể dạng đá có trong mẫu ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,6741 gam (Không phảy sáu bảy bốn một gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine.

2. 03 (Ba) viên nén màu hồng có trong mẫu ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,3092 gam (Không phảy ba không chín hai gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine.

3. Tinh thể dạng đá có trong mẫu ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2390 gam (Không phảy hai ba chín không gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine.

4. 01(một) viên nén màu hồng có trong mẫu ký hiệu M2 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,1022 gam (Không phảy một không hai hai gam, không kể bao bì) loại Methamphetamine.

Hoàn trả đối tượng giám định còn lại sau giám định, gồm: M1 tinh thể = 0,6253 gam mẫu, M1 viên nén = 0,2548 gam mẫu, M2 tinh thể = 0,1982 gam mẫu, M2 viên nén = 0,0538 gam mẫu cùng bao gói.

Quá trình điều tra xác định:

Về nguồn gốc ma túy: Chiều ngày 14/11/2020, Nguyễn Tùng L mua tại khu vực Cầu Vượt, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc của người đàn ông (không biết, tên, tuổi địa chỉ cụ thể) 01 túi ma túy đá và 01 túi nilon bên trong có 04 viên ma túy tổng hợp, với giá 1.000.000đ. L chia số ma túy mua được thành 02 túi nhỏ cất vào túi quần, mục đích ai mua thì bán.

Người bán ma túy cho Nguyễn Tùng L không có căn cứ xác định tên, tuổi, địa chỉ; Nguyễn Văn S sau khi bị bắt quả tang Cơ quan điều tra tiến hành lấy lời khai, S tường trình sự việc nhưng sau đó S lợi dụng sơ hở bỏ trốn, quá trình xác minh điều tra nhưng chưa xác định được. Cơ quan điều tra không đề cập xử lý các đối tượng trên.

01 điện thoại di động Nokia màu xanh là của Nguyễn Tùng L, 01 điện thoại di động Nokia màu xanh đen là của Nguyễn Văn S, L và S sử dụng để liên lạc mua bán ma túy.

01 xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS 29-xxxxx là của bà Vũ Thị Thúy V (mẹ đẻ của Nguyễn Tùng L), bà V không biết mục đích sử dụng của L. Ngày 08/02/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Đảo trả lại chiếc xe cho bà V.

Tại Bản Cáo trạng số: 14/CT-VKSTĐ ngày 25/02/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Nguyễn Tùng L về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Kiểm sát viên luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố như nội dung Bản cáo trạng. Đề nghị tuyên bố bị cáo Nguyễn Tùng L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy; áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, phạt: Nguyễn Tùng L từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 15/11/2020); đề nghị xử lý vật chứng và tính án phí theo quy định pháp luật.

Bị cáo Nguyễn Tùng L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa Nguyễn Tùng L thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung Bản cáo trạng đã truy tố, thể hiện như sau: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 15/11/2020, tại khu vực đường liên thôn gần cổng sân Golf Tam Đảo, thôn L, xã Hồ Sơn, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh phúc, Nguyễn Tùng L đang bán cho đối tượng tự khai tên là Nguyễn Văn S 01 gói tinh thể dạng đá (0,6741gam, loại Methamphetamine) và 03 viên nén màu hồng (0,3092gam, loại Methamphetamine) thì bị phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng. Ngoài số ma túy bán cho S, Nguyễn Tùng L còn đem theo 01 gói tinh thể dạng đá (0,2390gam, loại Methamphetamine) và 01 viên nén màu hồng (0,1022gam, loại Methamphetamine) với mục đích ai hỏi mua thì bán.

[3] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với vật chứng thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án mà cơ quan điều tra đã thu thập được. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”. Do đó, Bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với chất ma tuý, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội. Ma tuý là một tệ nạn cần phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của con người, sói mòn đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Bản thân bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, có nhân thân xấu (đã bị đưa đi cai nghiện bắt buộc, xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh nhau, Tòa án xét xử về tội Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ) nhưng không lấy đó làm bài học để rèn luyện, tu dưỡng bản thân mà lại lao vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt tù thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng: Không.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[7] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

Cần tịch thu tiêu hủy: 01 mẫu vật sau giám định do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại, gồm: M1 tinh thể = 0,6253 gam mẫu, M1 viên nén = 0,2548 gam mẫu, M2 tinh thể = 0,1982 gam mẫu, M2 viên nén = 0,0538 gam mẫu cùng bao gói; 02 thẻ sim điện thoại.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 02 điện thoại thu của Nguyễn Tùng L và Nguyễn Văn S, 1.000.000đ do liên quan đến hành vi phạm tội.

[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Tùng L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tùng L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Tùng L 03 (ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 15/11/2020).

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 01 mẫu vật sau giám định do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc hoàn lại, gồm: M1 tinh thể = 0,6253 gam mẫu, M1 viên nén = 0,2548 gam mẫu, M2 tinh thể = 0,1982 gam mẫu, M2 viên nén = 0,0538 gam mẫu cùng bao gói; 02 thẻ sim điện thoại.

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 02 điện thoại thu của Nguyễn Tùng L và Nguyễn Văn S, 1.000.000đ (Một triệu đồng).

(Các vật chứng có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 04/3/2021).

4. Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội: Buộc Nguyễn Tùng L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 08/2021/HS-ST

Số hiệu:08/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về