TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 66/2023/HS-ST NGÀY 27/12/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 12 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 74/2023/HSST ngày 23-11-2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2023 và Thông báo thay đổi thời gian mở phiên tòa số 08/2023/TB-TA, ngày 14 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Phạm Thanh T, sinh năm 2000; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn I, xã B, huyện An Lão, TP Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Phạm Văn S và bà Lê Thị S, bị cáo là con duy nhất trong gia đình; tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/8/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay, có mặt.
2. Hoàng Văn H, sinh ngày 09/4/2006; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: thôn T, xã B, huyện An Lão, TP Hải Phòng; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Hoàng Văn H và bà Trần Thị L, bị cáo là con duy nhất trong gia đình; tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/8/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương đến nay, có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Hoàng Văn H: Bà Nguyễn Thị L - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hải Dương, có mặt.
- Người giám hộ của bị cáo Hoàng Văn H:
+ Anh Hoàng Văn H, sinh năm 1977; HKTT: Thôn T, xã B, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.
+Chị Trần Thị L, sinh năm 1984; HKTT: Thôn Y, xã V, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Thành C, sinh năm1974; địa chỉ: Thôn I, xã B, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng, vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người làm chứng:
+ Anh Đồng Viết Â, sinh năm 1972;
+ Anh Đồng Hữu M, sinh năm 1981; Những người làm chứng đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hoàng Văn H và Phạm Thanh T là bạn quen biết nhau. Do cần tiền chi tiêu cá nhân và biết T có ma túy Tobacco bán nên H nảy sinh ý định mua ma túy của T để bán kiếm lời. Khoảng 07 giờ ngày 15/8/2023, H dùng điện thoại Iphone 6, vỏ màu vàng, lắp sim số 0857.618…. của mình đăng nhập tài khoản Messenger tên “Hoàng Văn H” nhắn tin đến tài khoản Messenger tên “Phạm Thanh T” của T hỏi mua ma túy Tobacco, T đồng ý. Khoảng 09 giờ cùng ngày, H đi bộ đến nhà T mua 01 túi nilon màu trắng bên trong có các sợi thực vật mầu nâu vàng là ma tuý Tobacco với giá 100.000 đồng và chưa trả tiền cho T. Sau khi mua được ma túy, H sử dụng tài khoản Facebook tên “Hoàng Văn H” đăng bài rao bán trong hội nhóm Facebook “Tobaco H”. Tối ngày 18/8/2023, có tài khoản Messenger (H không biết thông tin chủ tài khoản, không nhớ tên tài khoản Facebook của người này) nhắn tin hỏi mua 500.000 đồng tiền ma túy Tobacco. H hẹn trưa ngày 19/8/2023 sẽ mang 05 túi ma túy Tobacco đến bán cho người này. Do chưa đủ ma túy để bán nên khoảng từ 20 giờ đến 22 giờ 30 phút ngày 18/8/2023, H đã 02 lần mua của T 02 túi ma tuý Tobacco với giá 300.000 đồng và tiếp tục nợ tiền T. Trưa ngày 19/8/2023, H đi nhờ xe của một người không quen biết vào trung tâm thành phố Hải Phòng để bán ma túy. Trên đường đi, H chia ma túy trong 03 túi mua được của T thành 05 túi ma túy và đã bán cho một thanh niên không quen biết với giá 500.000 đồng.
Khoảng 21 giờ ngày 19/8/2023 đến tối ngày 20/8/2023, H đã 03 lần mua của T 03 túi ma tuý Tobacco với giá 400.000 đồng, sau đó H dùng điện thoại đăng nhập ứng dụng “MB Bank” bằng tài khoản ngân hàng số 3409042006, mở tại Ngân hàng Quân đội của H chuyển trả T tổng số tiền 800.000 đồng đến tài khoản ngân hàng số 0387060…, mở tại ngân hàng Quân đội của T. Đến trưa ngày 22/8/2023, H sử dụng tài khoản Facebook tên “Hoàng Văn H” đăng bài rao bán ma túy Tobacco trong hội nhóm Facebook “Tobaco H 24/7”. Khoảng 14 giờ cùng ngày, người có tài khoản Facebook tên “Lâm Nguyễn”(H không biết rõ tên tuổi, địa chỉ của người này) nhắn tin hỏi mua 05 túi ma túy loại Tobacco, H đồng ý và báo giá 500.000 đồng, trả thêm 60.000 đồng tiền phí giao thì người này đồng ý mua và bảo H mang ma túy đến vị trí người này cung cấp để giao. H lấy 03 túi ma túy mua được của T chia thành 06 túi ma túy có khối lượng tương đương nhau, mục đích sẽ bán 05 túi ma túy, còn 01 túi để tặng cho người mua. Sau đó, H điều khiển xe máy DAYANG, mầu sơn xanh, gắn biển số 16K2-…. (xe của anh Nguyễn Thành C.) đi đến địa phận xã N, huyện Tứ Kỳ để bán ma túy. Khoảng 15 giờ 10 phút cùng ngày, khi H dừng xe, đang đứng đợi ở cây xăng T thuộc thôn P, xã N, huyện Tứ Kỳ chờ người mua ma tuý đến, thì bị tổ công tác thuộc Công an huyện Tứ Kỳ phát hiện, kiểm tra. Khi bị kiểm tra, H đã thả 06 túi nilon màu trắng đều có kích thước (8,5x5)cm, bên trong 06 túi đều chứa các sợi màu nâu vàng, dạng sợi thực vật đang cầm trên tay trái xuống nền đường tại vị trí đứng và đập chiếc điện thoại iPhone 6, vỏ màu vàng, lắp sim số 0857.618…. đang cầm trên tay phải xuống nền đường. Tổ công tác đưa H cùng vật chứng và phương tiện về trụ sở UBND xã N, huyện Tứ Kỳ lập biên bản vụ việc, thu giữ cùng vật chứng.
Tại bản kết luận giám định số 678 ngày 24/8/2023 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP. Hải Phòng kết luận: Thực vật khô đựng trong 06 túi nilon gửi giám định có tổng khối lượng: 11,71 gam (Mười một phẩy bảy mươi mốt gam), tìm thấy chất ma tuý, loại 5F-ADB-PINACA và 5F-MDMB-PINACA. Hiện tại phòng PC09 Công an TP.Hải Phòng không có mẫu so sánh về hàm lượng nên không giám định hàm lượng chất ma túy loại 5F-ADB-PINACA và 5F- MDMB -PINACA.
Chất mà túy 5F-ADB-PINACA, STT 43 và 5F-MDMB-PINACA, STT 54, Danh mục IIC, thuộc Danh mục các chất ma tuý theo Nghị định số 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 Tại bản cáo trạng số: 72/CT-VKSTK ngày 20/11/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ truy tố bị cáo Phạm Thanh T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự; Hoàng Văn H về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.
Tại phiên toà: VKSND huyện Tứ Kỳ giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX):
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51, 38 BLHS đối với bị cáo Phạm Thanh T; khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 91, khoản 2 Điều 101, Điều 38 BLHS đối với bị cáo Hoàng Văn H.
Tuyên bố các bị cáo Phạm Thanh T, Hoàng Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;
+ Xử phạt Phạm Thanh T từ 07 năm 03 tháng đến 07 năm 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 28/8/2023.
+ Xử phạt Hoàng Văn H từ 18 đến 21 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 28/8/2023.
Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS); Tịch thu tiêu hủy 6,15gam thực vật sạng sợi cùng vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định, 01 sim thuê bao số 0867.889.xxx, 01 sim thuê bao số 0387.606….. Tịch thu phát mại nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại Iphone 6 bị hư hỏng, không sử dụng được, 01 điện thoại Iphone Xs max, vỏ màu trắng; trả lại anh Nguyễn Thành Chung 01 xem máy DAYANG, màu sơn xanh, biển số 16K2- ….
Các bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, đúng như cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ đã truy tố, các bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo H: Bà Nguyễn Thị L - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Hải Dương đề nghị HĐXX xem xét, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51, các điều 90, 91, khoản 2 Điều 101, Điều 38 BLHS, xem xét khi phạm tội bị cáo là người chưa thành niên và đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 16 đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Người đại diện hợp pháp cho bị cáo và bị cáo H nhất trí với bài bào chữa, không bổ sung gì thêm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của BLTTHS. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của các bị cáo trong giai đoạn điều tra phù hợp với lời khai của các bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Từ ngày 15/8/2023 đến ngày 20/8/2023, tại xã B, huyện A, TP.Hải Phòng, Phạm Thanh T đã 06 lần bán các sợi thực vật khô màu nâu vàng có chứa chất ma túy 5F-ADB-PINACA và 5F-MDMB-PINACA cho Hoàng Văn H với tổng số tiền 800.000 đồng. Khoảng 15 giờ 10 phút ngày 22/8/2023, tại khu vực cây xăng T thuộc thôn P, xã N, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương, Hoàng Văn H đã có hành vi mang 11,71 gam các sợi thực vật khô màu nâu vàng có chứa chất ma tuý, loại 5F- ADB-PINACA và 5F-MDMB-PINACA để bán cho người khác, thì bị tổ công tác thuộc Công an huyện Tứ Kỳ phát hiện, kiểm tra lập biên bản và thu giữ cùng vật chứng.
[3] Các bị cáo Phạm Thanh T, Hoàng Văn H đều là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự; nhận thức rõ hành vi mua bán trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, song với mục đích kiếm lời, bị cáo vẫn cố ý thực hiện đã cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 251 BLHS. Do Phạm Thanh T đã 06 lần bán trái phép chất ma túy nên bị cáo phải chịu tình tiết định khung “Phạm tội 02 lần trở lên” theo điểm b khoản 2 Điều 251 BLHS. Sau khi mua được ma túy của T, H gom lại và mang 11,71gam các sợi thực vật khô màu nâu vàng có chứa chất ma tuý, loại 5F-ADB-PINACA và 5F-MDMB-PINACA bán cho người khác nên Hoàng Văn H chỉ phải chịu trách nhiệm về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS. Như quyết định truy tố của VKSND huyện Tứ Kỳ đối với các bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Mặc dù nhận thức được ma tuý không chỉ gây tác hại rất lớn về sức khỏe cho chính người sử dụng mà còn làm ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của các thế hệ sau này, là gánh nặng cho gia đình, xã hội và là nguyên nhân phát sinh các tệ nạn xã hội khác, nhưng vì mục đích kiếm lời, coi thường pháp luật nên các bị cáo vẫn thực hiện. Vì vậy, hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải xử lý theo quy định pháp luật.
[5] Đây là vụ án có hai bị cáo phạm tội độc lập với nhau, trong đó mục đích T bán ma túy cho H để kiếm lời, mục đích H mua ma túy của T nhiều lần, gom lại và mang đi bán cho người khác cũng để kiếm lời, T không biết nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm độc lập do hành vi phạm tội của mình gây ra.
[6] Xét tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, điều kiện nhân thân của các bị cáo thấy rằng: Các bị cáo Phạm Thanh T, Hoàng Văn H đều không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 BLHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Khi phạm tội, bị cáo H trên 17 tuổi, là người chưa thành niên phạm tội, nhận thức pháp luật còn hạn chế, Vì vậy, HĐXX áp dụng các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại Điều 91, khoản 2 Điều 101 BLHS để xem xét khi lượng hình cho phù hợp và xem xét, giảm nhẹ cho các bị cáo một phần hình phạt thể hiện tính khoan hồng của pháp luật, nhưng dù có giảm nhẹ vẫn cần thiết buộc các bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để chấp hành hình phạt tù mới đủ tác dụng giáo dục riêng các bị cáo và đấu tranh, phòng ngừa chung trong xã hội.
[7] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy các bị cáo đều không nghề nghiệp ổn định, không có tài sản gì nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng: Đối với 6,15gam thực vật sạng sợi cùng vỏ bao gói mẫu hoàn lại sau giám định và 01 điện thoại Iphone 6, vỏ màu vàng trong có 01 sim thuê bao số 0867.889…. của H bị vỡ, hư hỏng (theo xác định của người có chuyên môn không sử dụng được và không còn giá trị), 01 sim thuê bao số 0387.606…. của T không còn giá trị nên cần tịch thu cho tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại Iphone Xs max, đây là phương tiện bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu phát mại nộp vào Ngân sách Nhà nước. Đối với số tiền 800.000 đồng H chuyển khoản để mua ma túy trong tài khoản của T mở tại Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam. Đây là số tiền do T phạm tội mà có nên cần tịch thu nộp Ngân sách Nhà nước. Do số tiền trên đang bị phong tỏa nên cần hủy bỏ lệnh phong tỏa tài khoản để đảm bảo cho việc thi hành án. Đối chiếc xe máy mà H đi bán ma túy là do bị cáo mượn của anh Nguyễn Thành Chung. Anh Chung không biết bị cáo sử dụng xe máy đi bán ma túy nên cần trả lại cho chủ sở hữu là phù hợp.
[9] Việc anh Nguyễn Thành C cho H mượn xe nhưng không biết mục đích H sử dụng xe máy đi bán trái phép chất ma túy nên không phải chịu trách nhiệm.
[10] Đối với người đã bán ma túy cho T và những người đã mua ma túy của H quá trình điều tra không làm rõ tên tuổi, địa chỉ nên chưa có căn cứ xử lý. Quá trình điều tra H còn khai nhận bán ma túy cho một người vào ngày 19/8/2023 tại Hải Phòng, được số tiền 500.000 đồng, tuy nhiên không xác định được người mua là ai, ngoài lời khai của bị cáo thì không có tài liệu, chứng cứ nào khác nên không có căn cứ xử lý H về hành vi này và cũng không có cơ sở để truy thu số tiền trên.
[11] Về án phí: Các bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thâm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Điều 38 BLHS đối với bị cáo Pham Thanh T; khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 91, khoản 2 Điều 101, Điều 38 BLHS đối với bị cáo Hoàng Văn H;
1. Tuyên bố: Các bị cáo Pham Thanh T, Hoàng Văn H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
+ Xử phạt Pham Thanh T 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 28/8/2023.
+ Xử phạt Hoàng Văn H 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 28/8/2023.
2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a, b, c khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu tiêu hủy 01 bì giấy có dấu niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Hải Phòng số 678MT/PC09, bên trong có chứa 6,15 gam thực vật dạng sợi cùng vỏ bao gói mẫu là mẫu vật hoàn lại sau giám định, 01 điện thoại iPhone 6, vỏ màu vàng, điện thoại bị hư hỏng, không sử dụng được, 01 sim điện thoại thuê bao số 0857.618…. của Hoàng Văn H, 01 sim điện thoại di động thuê bao số 0387.060…. của Phạm Thanh T; Tịch thu phát mại nộp vào Ngân sách Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động Iphone Xs max, vỏ màu trắng, điện thoại đã cũ của Phạm Thanh T. Trả lại anh Nguyễn Thành C, sinh năm 1974; địa chỉ: Thôn I, xã B, huyện An Lão, thành phố Hải Phòng 01 xe máy DAYANG, màu sơn xanh, xe cũ, gắn biển số 16K2-…. kèm chìa khóa. Hủy bỏ lệnh phong tòa tài khoản số 03/LPT-CQĐT ngày 25/08/2023 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Tứ Kỳ. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 800.000 đồng trong tài khoản số 0387060... tại Ngân hàng TMCP quân đội của Phạm Thanh T.
(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 21/12/2023 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ).
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về ...án phí và lệ phí Toà án. Buộc các bị cáo Phạm Thanh T và Hoàng Văn H mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 BLTTHS. Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho bị cáo có mặt, người bào chữa cho bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; người đại diện hợp pháp cho bị cáo vắng mặt được quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt được kháng cáo về những vấn đề có liên quan trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.
Bản án về tội mua bán trái phép chất ma túy số 66/2023/HS-ST
Số hiệu: | 66/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về