TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 07/2022/HS-PT NGÀY 22/03/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số:11/2022/TLPT-HS ngày 08 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Lê Văn H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 149/2021/HS-ST ngày 31/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.
Bị cáo có kháng cáo và không bị kháng nghị:
Lê Văn H, tên gọi khác: Không; sinh ngày 16 tháng 4 năm 1993; tại Thanh Oai, thành phố Hà Nội. Nơi cư trú: Thôn B, xã C, huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Kh, sinh năm 1958 và bà Trần Thị H, sinh năm 1958; vợ con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân:
- Năm 2007, bị Công an huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản.
- Ngày 11/6/2012 Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội xử phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (Bản án số 56/2012/HSST).
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam giam từ ngày 12/3/2021 đến ngày 09/6/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn là bảo lĩnh. Từ ngày 17/9/2021 đến nay bị bắt tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, “có mặt”.
Ngoài ra còn có bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 08/3/2021, Lê Văn H thông qua ứng dụng Facebook, dùng tài khoản “Nguyễn Thơm” và số điện thoại 0878603586 cùng địa chỉ nhận hàng tại “Lê Lợi, tổ 1, phường Phương Lâm, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình” để đặt mua 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax, dung lượng 64Gb, màu xanh rêu từ tài khoản tên “Nguyễn Long”, cửa hàng điện thoại có địa chỉ tại phường A, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh do anh Lê Xuân Th làm chủ. Qúa trình trao đổi, H cào 02 thẻ điện thoại có giá trị tiền là 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) chuyển cho anh Thịnh để đặt cọc.
Sáng ngày 12/3/2021, bị cáo đi xe khách từ Hà Nội lên TP Hòa Bình, khi đi H mang theo 02 mô hình điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax, màu xanh rêu giống với 02 điện thoại đã đặt mua trước đó qua mạng và số tiền 4.750.000đ (Bốn triệu bảy trăm năm mươi nghìn đồng) nhằm mục đích tráo đổi với điện thoại thật khi nhận hàng.
Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, tại đường Hai Bà Trưng, phường Phương Lâm, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, anh Nguyễn Trường G – là nhân viên của Công ty CP Giao hàng tiết kiệm thực hiện việc giao cho H 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax. Quá trình giao nhận hàng, H đưa cho anh G cọc tiền mệnh giá 50.000đ (năm mươi nghìn đồng), lợi dụng lúc anh G đang kiểm đếm tiền không chú ý, H mở bọc hàng lấy hai chiếc điện thoại trong bọc hàng cho vào 02 túi quần sau đang mặc, đồng thời lấy 02 mô hình điện thoại di động đã chuẩn bị từ trước cho vào bọc hàng. Khi thấy H có biểu hiện bất thường và số tiền trả thanh toán tiền hàng không đủ, anh G yêu cầu H thanh toán đủ số tiền trong đơn hàng, H quanh co sau đó đề nghị trả lại hàng. Anh G giữ H lại và gọi điện cho bạn cùng Công ty giao hàng là anh Nguyễn Bá Huynh đến kiểm tra và phát hiện bên trong 02 túi quần sau đang mặc của H có 02 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax, màu xanh rêu, sau đó đã trình báo sự việc đến Cơ quan công an.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 72/KL-HĐĐGTS ngày 17/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự thành phố Hòa Bình, kết luận: “01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu APPLE IPHONE 11 Promax, màu xanh rêu, dung lượng 64GB, số máy: MWG52LL/A, số seri: F2MZKA4FN70G, số seri sim thực: 353897104461423, số IMEL sim kỹ thuật số: 353897104353484, tình trạng đã qua sử dụng giá 18.000.000 đồng; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu APPLE IPHONE 11 Promax, màu xanh rêu, dung lượng 64GB, số máy: MWG52LL/A, số seri: F2LZGPMMN70G, số seri sim thực: 353894102329892, số IMEL sim kỹ thuật số: 3538941022274239, tình trạng đã qua sử dụng giá 18.000.000 đồng; 02 chiếc điện thoại mô hình màu xanh rêu được dựng lại theo thiết kế của chiếc điện thoại di động nhãn hiệu IPHONE 11 Promax giá 600.000 đồng. Tổng giá trị tài sản định giá là 36.600.000 đồng”.
Tại Thông báo kết quả giám định tiền số 256/TB-HBI ngày 13/4/2021 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Hòa Bình, kết luận: “95 tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng gửi giám định là tiền thật do NHNN Việt Nam phát hành”.
Tại Bản kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 263/KLGĐ ngày 06/8/2021 của Viện pháp y tâm thần Trung ương, kết luận “Trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định đối tượng Lê Văn H có biểu hiện hội chứng nghiện chất gây ảo giác. Theo phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F16.2. Tại các thời điểm trên đối tượng đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Căn cứ điều 5 Nghị định 64/2011/NĐCP ngày 28/7/2011 của Chính phủ quy định về việc thi hành Biện pháp bắt buộc chữa bệnh và điều 49 Bộ luật hình sự năm 2015 về “bắt buộc chữa bệnh”: Đối tượng Lê Văn H không thuộc diện cần áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 149/2021/HS-ST ngày 31/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình quyết định: Áp dụng khoản 1 Điều 174; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt: Lê Văn H 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/9/2021, được trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/3/2021 đến ngày 09/6/2021.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 31/12/2021 bị cáo Lê Văn H kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là không đúng với hành vi phạm tội của bị cáo, tuy nhiên tại lời nói sau cùng bị cáo nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt.
Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm:
Về thời hạn kháng cáo và thủ tục thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo đã thực hiện trong thời hạn và đúng hình thức theo quy định.
Về nội dung kháng cáo:
Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Văn H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật, không oan. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cũng đã thừa nhận hành vi phạm tội và xin giảm nhẹ hình phạt, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, khoản 1 Điều 51 Bộ luật Tố tụng hình sự cần được áp dụng cho bị cáo, tuy nhiên mức hình phạt đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra.
Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a, khoản 1 điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo bản án trong thời hạn luật định.
[2]. Xét kháng cáo của bị cáo Lê Văn H:
2.1. Căn cứ vào lời khai nhận của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án cho thấy:
Sáng ngày 12/3/2021, tại đường Hai Bà Trưng, thuộc tổ 7, phường Phương Lâm, thành phố Hòa Bình, trong khi giao nhận hàng đặt mua qua mạng, Lê Văn H đã có thủ đoạn gian dối dùng số tiền 4.750.000đ loại tiền mệnh giá 50.000đ để thanh toán và sử dụng 02 mô hình điện thoại đã chuẩn bị trước để tráo đổi lấy 02 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax, cho vào hai túi quần sau đang mặc để chiếm đoạt tài sản có tổng giá trị là 36.000.000 đồng.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, cũng như ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Văn H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.
2.2. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo:
Tại phiên tòa phúc thẩm, khi nói lời sau cùng bị cáo cũng đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được áp dụng cho bị cáo. Tuy nhiên, với mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp với tính chất của vụ án, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như nhân thân của bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Lê Văn H, phù hợp với quan điểm giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình tham gia phiên tòa.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4]. Về án phí: Bị cáo Lê Văn H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn H; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 149/2021/HS-ST ngày 31/12/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình, cụ thể:
1. Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm s, khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự,
2. Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt Lê Văn H 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/9/2021, được trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 12/3/2021 đến ngày 09/6/2021.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự, khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016 - UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (22/3/2022).
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 07/2022/HS-PT
Số hiệu: | 07/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/03/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về