Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 141/2022/HSPT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN SỐ 141/2022/HSPT NGÀY 21/03/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, mở phiên tòa xét xử phúc thẩm, công khai, vụ án hình sự thụ lý số 1179/2021/TLPT-HS ngày 28 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo Lê Tuấn Kh, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 409/2021/HS-ST ngày 25 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

1. Bị cáo có kháng cáo: Lê Tuấn Kh, sinh năm 1947; giới tính: Nam; HKTT và nơi ở: thôn C, xã Cổ B, huyện Gia L, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 7/10; Đảng phái, đoàn thể: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Lê Văn Kh1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị V (đã chết); có vợ là Đỗ Thị Minh T và có 04 con, con lớn nhất sinh năm 1973, con nhỏ nhất sinh năm 1980; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

2. Người bào chữa cho bị cáo Lê Tuấn Kh: Bà Hồ Thị Thúy S, Trợ giúp viên pháp lý - Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội; có mặt.

3. Ngoài ra, trong vụ án còn có 04 người bị hại và 05 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị; Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong năm 2019 và năm 2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội nhận được nhiều đơn tố giác Lê Tuấn Kh (sinh năm 1947; trú tại thôn C, xã Cổ B, huyện Gia L, Hà Nội) có hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hình thức nhận tiền hứa xin vào làm việc tại các Bệnh viện và ngành Công an trên địa bàn thành phố Hà Nội. Quá trình điều tra đã xác định được như sau:

Lê Tuấn Kh là đối tượng không có nghề nghiệp ổn định, từ năm 2013 đến 2018, với mục đích để có tiền tiêu xài, Kh đã đưa ra thông tin gian dối: Có quen biết nhiều Lãnh đạo Bệnh viện Phụ sản trung ương, Viện vệ sinh dịch tễ, Viện vệ sinh an toàn thực thẩm - Bộ y tế, Lãnh đạo ngành Công an, để những người bị hại tin tưởng đưa tiền, hồ sơ. Sau khi nhận được tiền của các bị hại, Kh đã chiếm đoạt, cụ thể:

1. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt của ông Nguyễn Đức H (sinh năm 1957; trú tại khu tập thể Tổng cục 2, phường Xuân T1, quận Bắc Từ L1, Hà Nội) số tiền 530.000.000 đồng.

Tháng 8/2013, ông Nguyễn Đức H thông qua bạn bè biết Lê Tuấn Kh có khả năng xin việc cho hai con gái ông H là chị Nguyễn Thị Hương M (sinh năm 1988) vào làm việc tại Bệnh viện Phụ sản trung ương và chị Nguyễn Thị Ng (sinh năm 1983) vào làm việc tại Bệnh viện Răng hàm mặt trung ương với chi phí là 300.000.000 đồng một người. Ông H đã nhiều lần đưa tiền cho Kh, cụ thể như sau:

- Lần 1: Ngày 26/9/2013, ông H đưa cho Kh 150.000.000 đồng tại một quán cafe trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, Hà Nội (ông H không nhớ địa chỉ cụ thể) để xin việc cho chị M, khi nhận tiền Kh viết giấy biên nhận với nội dung: “Tôi Lê Tuấn Kh ở thôn C xã Cổ Bi Gia Lâm Hà Nội số CMT 012364283 có nhận của ông H có cháu là Nguyễn Thị Hương M Bác sỹ vào viện sản C. Số tiền ông H tạm giao cho tôi là 150 triệu để xin việc cho cháu. Nếu không được tôi sẽ hoàn trả ông ngay số tiền trên”.

- Lần 2: Ngày 18/10/2013, ông H đưa cho Kh 150.000.000 đồng tại một quán cafe trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, Hà Nội (ông H không nhớ địa chỉ cụ thể) để xin việc cho chị Ng, khi nhận tiền Kh viết giấy biên nhận với nội dung: “Tôi Lê Tuấn Kh ở thôn C xã Cổ Bi huyện Gia Lâm Hà Nội có nhận của ông H. Thái Bình số tiền 150 triệu để xin việc cho cháu Ng vào làm ở Bệnh viện răng hàm mặt Trung ương. Vậy tôi viết giấy này làm bằng sai tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật”.

- Lần 3: Ngày 20/01/2014, ông H đưa cho Kh 150.000.000 đồng tại nhà ở của Kh để xin việc cho chị M. Khi nhận tiền Kh viết giấy biên nhận với nội dung: “Tôi Lê Tuấn Kh có nhận của ông H. Thái Bình, cùng đi với ông H có ông bác Bình cùng quê chứng thực. Nhận của ông H 150 triệu để xin cho cháu Ng Thị Hương M vào làm tại Bệnh viện sản C. Số tiền này tôi đã nhận đủ. Vậy tôi viết giấy làm bằng nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm”.

- Lần 4: Ngày 23/4/2014, ông H đưa cho Kh 50.000.000 đồng tại một quán cafe trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, Hà Nội (ông H không nhớ địa chỉ cụ thể) để xin việc cho chị Ng, khi nhận tiền Kh viết giấy biên nhận với nội dung: “Hôm nay ngày 23 tháng 4. Tôi Lê Tuấn Kh có nhận của ông H số tiền 50 triệu chẵn để giúp cháu Ng vào răng hàm mặt”.

- Lần 5: Ngày 11/7/2014, ông H đưa cho Kh số tiền 100.000.000 đồng tại một quán cafe trên địa bàn quận Hoàn Kiếm, Hà Nội (ông H không nhớ địa chỉ cụ thể) để xin việc cho chị Ng, khi nhận tiền Kh viết giấy biên nhận với nội dung: “Tôi tên là Lê Tuấn Kh ở thôn C xã Cổ Bi Gia Lâm Hà Nội có nhận của ông H ở Thái Bình số tiền 100 triệu đồng để lo việc cho cháu Ng, nếu không được việc sau mười ngày tôi hoàn trả ông H”.

Sau khi nhận của ông Nguyễn Đức H tổng số tiền là 600.000.000 đồng, Lê Tuấn Kh không xin việc cho chị M và chị Ng như đã hứa hẹn, mà đã sử dụng số tiền trên tiêu xài cá nhân. Sau nhiều lần ông H đòi tiền, năm 2016 Kh trả lại cho ông H số tiền 70.000.000 đồng, còn lại số tiền 530.000.000 đồng đến nay ông H yêu cầu Lê Tuấn Kh hoàn trả lại số tiền trên.

Vật chứng thu giữ: Ông Nguyễn Đức H giao nộp 01 Giấy nhận tiền (bản chính) ghi ngày 26/9/2013 (Ký hiệu A1); 01 Giấy nhận tiền (bản chính) ghi ngày 23/4 (Ký hiệu A2); 01 Giấy nhận tiền (bản chính) ghi ngày 11/7/2014 (Ký hiệu A3); 01 Giấy nhận tiền (bản chính) ghi ngày 20/01/2014 (Ký hiệu A4) và 01 giấy nhận tiền (bản photo) ghi ngày 18/10/2013. Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết trên 04 giấy nhận tiền do ông H giao nộp. Tại Kết luận giám định số 7817/KLGĐ-PC09-Đ4 ngày 03/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: “Chữ ký, chữ viết đứng tên Lê Tuấn Kh trên các mẫu cần giám định (Ký hiệu từ A1 đến A4) với chữ ký, chữ viết đứng tên Lê Tuấn Kh trên các mẫu so sánh (Ký hiệu từ M1 đến M4) là chữ do cùng một người viết và ký ra”.

Ngày 27/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lâm có văn bản gửi Bệnh viện Phụ sản trung ương đề nghị cung cấp thông tin liên quan. Ngày 12/11/2020, Bệnh viện phụ sản trung ương có Văn bản số 856/CV-PSTW trả lời: Năm 2013, 2014, Bệnh viện phụ sản trung ương tổ chức xét tuyển viên chức nhưng không có thí sinh nào tên Nguyễn Thị Hương M.

Ngày 11/11/2020, Cơ quan điều tra tiến hành xác minh tại Bệnh viện Răng hàm mặt trung ương Hà Nội, xác định: Thời điểm năm 2014, Bệnh viện Răng hàm mặt trung ương Hà Nội không tuyển dụng cán bộ, công nhân viên nào có tên Nguyễn Thị Ng. Hiện tại bệnh viện cũng không có người lao động có tên là Nguyễn Thị Ng sinh năm 1983 có hộ khẩu như trên. Bệnh viện không có cán bộ, viên chức và người lao động có họ tên là Lê Tuấn Kh.

2. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt của ông Dương Xuân T2 (sinh năm 1972;

trú tại tổ 19, phường Hoàng L2, quận Hoàng Mai, Hà Nội) tổng số tiền 405.000.000 đồng.

Đầu năm 2014, thông qua mối quan hệ xã hội, ông Dương Xuân T2 quen biết Lê Tuấn Kh. Quá trình quen biết, Kh tự giới thiệu có khả năng xin việc vào một số bệnh viện lớn tại Hà Nội, nên ông T2 đã nhiều lần đưa tiền, hồ sơ nhờ Kh xin việc, cụ thể:

- Lần 1: Ông Dương Xuân T2 và ông Hoàng Văn Ch (sinh năm 1952; trú tại P402 - CT2, tổ 9, phường Phúc La, quận Hà Đông, Hà Nội) là đồng hương và có quen biết nhau. Quá trình quen biết, ông Ch nhờ ông T2 xin việc cho chị Hoàng Thị D (sinh năm 1992 - là con gái ông Ch). Hai bên thỏa thuận ông T2 tự ứng tiền ra xin việc cho chị D, khi nào xin được việc thì ông Ch sẽ trả tiền cho ông T2. Sau đó ông T2 nhờ Lê Tuấn Kh thì Kh đồng ý xin cho chị D vào làm việc tại Viện vệ sinh an toàn thực phẩm - Bộ Y tế với số tiền 250.000.000 đồng. Sau khi thỏa thuận, ngày 23/01/2014, ông T2 đến nhà Kh đưa cho Kh số tiền 100.000.000 đồng và 01 bộ hồ sơ xin việc mang tên Hoàng Thị D, khi nhận tiền Kh viết giấy biên nhận tiền với nội dung: “Tôi Lê Tuấn Kh ở thôn C xã Cổ Bi huyện Gia Lâm. Có nhận của chú T2 bác sỹ số tiền 100 triệu để xin cho cháu Hoàng Thị D vào làm việc tại Viện vệ sinh thực phẩm Bộ y tế”. Ngày 12/3/2014, ông T2 đến nhà Kh đưa cho Kh 80.000.000 đồng, khi nhận tiền Kh viết giấy biên nhận tiền với nội dung: “Tôi Lê Tuấn Kh nhận của anh Dương Xuân T2 80 triệu của cháu D vào Viện vệ sinh thực phẩm”. Ngày 22/3/2014, ông T2 đến nhà Kh đưa cho Kh 70.000.000 đồng, khi nhận tiền Kh viết giấy biên nhận tiền với nội dung: “Tôi Lê Tuấn Kh ở thôn C xã Cổ Bi Gia Lâm Hà Nội có nhận của chú T2 số tiền 70 triệu để lo cho cháu D vào làm Viện vệ sinh thực phẩm”. Sau khi nhận tiền, Kh hứa với ông T2 tháng 4/2014 chị D sẽ được vào làm việc tại Viện vệ sinh an toàn thực phẩm - Bộ Y tế. Tuy nhiên Lê Tuấn Kh không xin việc cho chị Hoàng Thị D như đã hứa. Số tiền 250.000.000 đồng Kh nhận của ông Dương Xuân T2 để xin việc cho chị D thì Kh chiếm đoạt sử dụng tiêu xài cá nhân.

Ngày 27/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lâm có văn bản đề nghị Viện kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm Quốc Gia - Bộ y tế cung cấp thông tin liên quan. Ngày 03/11/2020 Viện kiểm nghiệm an toàn vệ sinh thực phẩm Quốc Gia - Bộ y tế có Văn bản số 600/VKNQG -TCHC trả lời: Thời điểm năm 2014, Viện không tiếp nhận hoặc tuyển dụng viên chức, lao động hợp đồng nào có tên Hoàng Thị D. Từ trước đến nay, Viện không có viên chức hoặc lao động hợp đồng nào có tên Lê Tuấn Kh.

- Lần 2: Cũng trong tháng 01/2014, thông quan mối quan hệ xã hội, ông Hán Văn T3 (sinh năm 1963; trú tại tổ 113, phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang) quen biết ông Dương Xuân T2. Quá trình quen biết, ông T3 nhờ ông T2 xin việc cho chị Hán Minh H1 (sinh năm 1991 - là con gái ông T3). Sau đó ông T2 đưa ông T3 đến gặp Lê Tuấn Kh, ông T3 và ông T2 nhờ Kh xin việc cho chị H1 thì Kh đồng ý hứa xin cho chị H1 vào làm việc tại Viện y tế dự phòng - Bộ Y tế. Kh hứa đến tháng 8/2014 chị H1 sẽ được đi làm, chi phí xin việc hết số tiền là 200.000.000 đồng. Sau khi thỏa thuận, ông T2 và ông T3 đã đưa tiền cho Kh, cụ thể như sau:

Ngày 10/01/2014, ông Dương Xuân T2 đến nhà Kh, ông T2 tự ứng tiền đưa cho Kh 100.000.000 đồng và 01 bộ hồ sơ xin việc mang tên Hán Minh H1, khi nhận tiền, Kh viết giấy biên nhận tiền với nội dung: “Tôi Lê Tuấn Kh ở thôn C xã Cổ Bi Gia Lâm HN có nhận của chú T2 bác sỹ 100 triệu đồng cho cháu Hán Thị H1”. Ngày 08/7/2014, ông Hán Văn T3 đến nhà đưa cho Lê Tuấn Kh số tiền 100.000.000 đồng để xin việc cho chị H1, khi nhận tiền Kh viết giấy biên nhận tiền với nội dung: “Tôi Lê Tuấn Kh ở xóm 1 thôn C xã Cổ Bi Gia Lâm HN. Số chứng minh thư 0123364283, cấp ngày 07/5/2000. Công an Hà Nội cấp. Có nhận của ông Hán Văn T3 ở 1B Trần Nguyễn Hãn 100 triệu đồng để no việc cho cháu Hán Minh H1 vào Cục Y tế dự phòng BYTế. Số tiền đã nhận trong tháng 8 cháu không được việc, tôi sẽ hoàn trả lại số tiền trên (trong tháng 8)”. Tuy nhiên Lê Tuấn Kh không xin việc cho chị Hán Minh H1 như đã hứa. Số tiền 100.000.000 đồng Kh nhận của ông Hán Văn T3 để xin việc cho chị H1, sau nhiều lần yêu cầu trả lại tiền, tháng 9/2014, Kh đã trả lại ông T3 số tiền 100.000.000 đồng. Ông T3 đã nhận đủ tiền và nay không yêu cầu bồi thường gì thêm. Số tiền 100.000.000 đồng Lê Tuấn Kh nhận của ông Dương Xuân T2 để xin việc cho chị Hán Minh H1 thì Kh chiếm đoạt sử dụng tiêu xài cá nhân.

Ngày 27/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lâm có văn bản đề nghị Cục Y tế dự phòng cung cấp thông tin liên quan. Ngày 17/11/2020, Cục y tế dự phòng - Bộ Y tế có Văn bản số 996/DP-VP trả lời: Cục y tế dự phòng thực hiện thi tuyển công chức năm 2014 công khai, minh bạch theo đúng quy định pháp luật. Hồ sơ đăng ký thi tuyển công chức năm 2014 có thí sinh Hán Minh H1 sinh năm 1991 - HKTT: 193 đường Nguyễn Công Hãng, phường Trần Nguyên Hãn, thành phố Bắc Giang. Cục y tế dự phòng không có liên hệ hoặc làm việc có ai có tên là Lê Tuấn Kh.

Vật chứng thu giữ: Ông Dương Xuân T2 giao nộp 01 giấy nhận tiền ghi ngày 10/01/2014 (Ký hiệu A4); 01 giấy nhận tiền ghi ngày 8/7/2014 (Ký hiệu A7).

- Lần 3: Khoảng năm 2014, thông qua mối quan hệ xã hội, ông Nguyễn Văn Q (sinh năm 1959; trú tại thôn Phúc A, xã Cẩm Ph, huyện Cẩm Giàng, Hải Dương) quen biết ông Dương Xuân T2, ông Q nhờ ông T2 xin việc cho chị Nguyễn Thị T4 (sinh năm 1991 - là con gái ông Q). Ông T2 nói có quen biết Lê Tuấn Kh là người có khả năng xin vào làm việc tại Bệnh viện phụ sản Trung ương, thì ông Q đồng ý nhờ Kh xin việc cho chị T4. Sau đó chị T4 đã đưa cho ông T2 01 bộ hồ sơ mang tên Nguyễn Thị T4. Ngày 04/4/2014, ông Dương Xuân T2 đến nhà Lê Tuấn Kh, ông T2 tự ứng tiền đưa cho Kh số tiền 100.000.000 đồng cùng 01 bộ hồ sơ xin việc của chị T4 để nhờ Kh xin cho chị T4 vào làm việc tại Bệnh viện phụ sản trung ương. Sau khi nhận tiền và hồ sơ, Kh viết giấy biên nhận tiền với nội dung: “Tôi Lê Tuấn Kh ở xã Cổ Bi Gia Lâm Hà Nội có nhận của chú T2 bác sỹ số tiền 100 triệu để cho cháu T4 vào Bệnh viện sản Trung ương”. Tuy nhiên Lê Tuấn Kh không xin việc cho chị Nguyễn Thị T4 như đã hứa. Số tiền 100.000.000 đồng Kh nhận của ông Dương Xuân T2 để xin việc cho chị T4 thì Kh chiếm đoạt sử dụng tiêu xài cá nhân.

Vật chứng thu giữ: Ông Dương Xuân T2 giao nộp 01 giấy nhận tiền ghi ngày 4/4/2014 (Ký hiệu A9).

Ngày 27/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lâm có văn bản đề nghị Bệnh viện phụ sản trung ương cung cấp thông tin. Ngày 12/11/2020, Bệnh viện phụ sản trung ương có Văn bản số 856/CV-PSTW trả lời: Năm 2013, bệnh viện phụ sản trung ương tổ chức xét tuyển viên chức nhưng không có thí sinh nào tên là Nguyễn Thị T4 sinh năm 1991 - quê quán Hải Dương nộp hồ sơ đăng ký tham gia xét tuyển.

Tổng số tiền 450.000.000 đồng Lê Tuấn Kh nhận của ông Dương Xuân T2 để xin việc cho chị Hoàng Thị D, chị Hán Minh H1 và chị Nguyễn Thị T4 nhưng Kh không xin việc cho chị D, chị H1 và chị T4 như đã hứa. Sau nhiều lần yêu cầu trả lại tiền, từ tháng 8/2014 đến ngày 28/01/2015 Lê Tuấn Kh đã trả lại cho ông T2 tổng số tiền là 45.000.000 đồng, số tiền còn lại Kh đã chiếm đoạt. Nay ông T2 yêu cầu Kh phải hoàn trả số tiền 405.000.000 đồng.

3. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt của ông Nguyễn Văn T5 (sinh năm 1962; trú tại thôn Quang Xá, xã Quang Hưng, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên) tổng số tiền 255.000.000 đồng.

Năm 2016, thông qua mối quan hệ xã hội, ông Nguyễn Văn T5 quen biết Lê Tuấn Kh. Khoảng tháng 3/2016, ông T5 nhờ Kh xin cho con gái ông T5 là chị Nguyễn Thị Ngọc Ánh (sinh năm 1990) vào làm việc tại Bệnh viện Phụ sản trung ương. Kh cam kết sẽ xin cho chị Ánh vào làm công chức tại Bệnh viện phụ sản trung ương với chi phí hết 320.000.000 đồng và trong vòng 01 tháng chị Ánh sẽ được đi làm, ông T5 đồng ý đã nhiều lần đưa tiền cho Kh, cụ thể như sau:

Khoảng cuối tháng 3/2016, ông T5 đưa cho Kh số tiền 50.000.000 đồng, khi nhận tiền Kh viết giấy biên nhận tiền (không ghi ngày) với nội dung: “Tôi tên Lê Tuấn Kh ở thôn C xã Cổ Bi Gia Lâm Hà Nội số chứng minh 012364283 có vay của ông Nguyễn Văn T5 xã Quang Hưng Phù Cừ 50 triệu khi nào ông T5 cần báo trước tôi 15 ngày tôi hoàn trả ông”. Ngày 06/4/2016, ông T5 đưa cho Kh số tiền 80.000.000 đồng, khi nhận tiền Kh viết giấy biên nhận tiền với nội dung: “Tôi tên Lê Tuấn Kh ở thôn C xã Cổ Bi có vay của Nguyễn Văn T5 ở Phù Cừ Hưng Yên số tiền 80 triệu đồng khi nào ông T5 cần tôi hoàn trả ngay”. Ngày 25/4/2016, ông T5 đưa cho Kh số tiền 20.000.000 đồng, khi nhận tiền Kh viết giấy biên nhận tiền với nội dung: “Tôi tên Lê Tuấn Kh ở thôn C có vay của bố cháu Ánh số tiền 20 triệu đồng khi nào bố cháu ánh đòi tôi hoàn trả ngay”. Ngày 13/5/2016, ông T5 đưa cho Kh số tiền 30.000.000 đồng, khi nhận tiền Kh viết giấy biên nhận tiền với nội dung: “Tôi Lê Tuấn Kh có vay của bố cháu Ánh số tiền 30 triệu đồng chẵn khi nào bố cháu ánh đòi tôi trả ngay”. Ngày 21/6/2016, ông T5 đưa cho Kh số tiền 25.000.000 đồng, khi nhận tiền Kh viết giấy biên nhận tiền với nội dung: “Tôi Lê Tuấn Kh có vay của bố cháu Ánh số tiền 25 triệu đồng số tiền này khi nào cần tôi hoàn trả ngay”. Khoảng tháng 8/2016, ông T5 đưa cho Kh số tiền 50.000.000 đồng nhưng không viết giấy biên nhận gì. Ngày 13/8/2016 ông T5 đến nhà Kh yêu cầu Kh viết giấy biên nhận số tiền đã nhận trước đó, thì Kh viết giấy biên nhận với nội dung: “Tổng số bố cháu Ánh đưa cho tôi là Lê Tuấn Kh số tiền là 255 triệu để bồi dưỡng cho Giám đốc nếu sai tôi xin chịu trách nhiệm mọi giấy tờ khác 0 có giá trị. Số tiền là 255 triệu chẵn”. Tuy nhiên Lê Tuấn Kh không xin việc cho chị Nguyễn Thị Ngọc Ánh như đã hứa. Số tiền 255.000.000 đồng Kh nhận của ông Nguyễn Văn T5 để xin việc cho chị Ánh thì Kh đã chiếm đoạt, nay ông T5 yêu cầu Kh phải hoàn trả số tiền trên.

Ngày 27/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lâm có văn bản đề nghị Bệnh viện phụ sản trung ương cung cấp tông tin liên quan. Ngày 12/11/2020, Bệnh viện phụ sản trung ương có Văn bản số 856/CV-PSTW trả lời: Năm 2016, bệnh viện Phụ sản trung ương không tuyển dụng viên chức và cũng không nhận hồ sơ xin việc nào của bà Nguyễn Thị Ngọc Ánh (sinh năm 1990; trú tại: Quang Xá, Quang Hưng, Phù Cừ, Hưng Yên). Ông Lê Tuấn Kh không phải là nhân viên của Bệnh viện phụ sản trung ương. Ông Lê Tuấn Kh không nộp hồ sơ xin việc cho bà Nguyễn Thị Ngọc Ánh.

Vật chứng thu giữ: Ông Nguyễn Văn T5 giao nộp 01 Giấy vay tiền ghi ngày 6/4/2016 (Ký hiệu A1); 01 Giấy vay tiền ghi ngày 21.6.2016 (Ký hiệu A2);

01 Giấy vay tiền không ghi ngày (Ký hiệu A3); 01 Giấy nhận tiền ghi ngày 13/5/2016 (Ký hiệu A8); 01 giấy viết tay, có nội dung Kh vay của bố cháu Ánh 20.000.000 đồng không ghi ngày (Ký hiệu A11); 01 giấy viết tay có nội dung tổng số bố cháu Ánh đưa tôi số tiền là 255 triệu đồng ghi ngày 13/8/2016 (Ký hiệu A12). Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lâm đã trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết trên 12 giấy vay tiền, giấy nhận tiền trên. Tại Kết luận giám định số 7253/KLGĐ-PC09-Đ4 ngày 19/11/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận:Chữ viết, chữ ký đứng tên Lê Tuấn Kh trên các mẫu cần giám định (Ký hiệu từ A1 đến A12) với chữ viết, chữ ký đứng tên Lê Tuấn Kh trên các mẫu so sánh (Ký hiệu từ M1 đến M4) là chữ do cùng một người viết và ký ra”.

4. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt của ông Lê Văn U (sinh năm 1962; trú tại thôn C, xã Cổ Bi, huyện Gia Lâm, Hà Nội) số tiền 70.000.000 đồng.

Ông Lê Văn U và Lê Tuấn Kh ở cùng thôn và có quan hệ họ hàng. Khoảng tháng 12/2018, Kh đến chơi nhà ông U. Kh biết con trai ông U là anh Lê Đức A (sinh năm 1993) đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành kế toán nhưng chưa xin được việc làm. Kh tự giới thiệu mình quen biết nhiều lãnh đạo trong ngành Công an, có thể xin cho anh Đức A vào ngành Công an. Ông U tin tưởng nên nhờ Kh xin việc cho anh Đức A thì Kh đồng ý và yêu cầu ông U đưa 70.000.000 đồng để xin việc. Ngày 28/12/2018 ông U cùng anh Đức A đến nhà Kh đưa cho Kh 01 bộ hồ sơ xin việc của anh Đức A và số tiền 70.000.000 đồng. Khi nhận tiền, Kh viết giấy nhận tiền với nội dung: “Hôm nay ngày 28/12/2018 tôi Lê Tuấn Kh số chứng minh thư 012364283 Công an Gia Lâm cấp. Có nhận của anh Lê Văn U thôn C Gia Lâm Hà Nội 70 triệu lý do nhận tiền để xin việc cháu Lê Đức A là con của anh U vào ngành C.An đến ngày 16/01/2019 nếu không xin việc được tôi hoàn trả đủ tôi cam đoan nếu sai tôi hoàn toàn chịu trước pháp luật”. Tuy nhiên Lê Tuấn Kh không xin việc cho anh Lê Đức A như đã hứa. Số tiền 70.000.000 đồng Kh nhận của ông Lê Văn U để xin việc cho anh Lê Đức A thì Kh đã chiếm đoạt, nay ông U yêu cầu Kh phải hoàn trả số tiền trên.

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lâm có văn bản đề nghị cung cấp thông tin. Ngày 12/11/2020 Cục tổ chức cán bộ - Bộ Công an có Văn bản số 18293/X01-P2 trả lời: Trong thời gian từ 28/12/2018 đến nay không có ai tên là Lê Đức A, sinh năm 1993, HKTT: thôn C 2, Cổ Bi, Gia Lâm, Hà Nội được tU vào Công an nhân dân.

Vật chứng thu giữ: Ông Lê Văn U giao nộp 01 Giấy nhận tiền ghi ngày 28/12/2018 (Ký hiệu A). Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Gia Lâm đã trưng cầu giám định chữ ký, chữ viết trong giấy nhận tiền trên. Tại Kết luận giám định số 1789/KLGĐ-PC09-Đ4 ngày 09/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận: Chữ viết, chữ ký đứng tên Lê Tuấn Kh trên mẫu cần giám định (Ký hiệu A) với chữ ký, chữ viết đứng tên Lê Tuấn Kh trên các mẫu so sánh (Ký hiệu từ M1 đến M3) là chữ do cùng một người viết và ký ra”.

Tại cơ quan điều tra, Lê Tuấn Kh đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Tuy nhiên đối với số tiền Kh đã nhận của ông Nguyễn Văn T5 để xin cho chị Nguyễn Thị A1 vào làm việc tại Bệnh viện phụ sản trung ương, thì Kh khai chỉ nhận số tiền 220.000.000 đồng chứ không phải là 255.000.000 đồng. Quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tiến hành đối chất giữa ông Tuấn và Kh, nhưng kết quả ông Tuấn và Kh vẫn giữ nguyên lời khai của mình. Căn cứ các giấy biên nhận tiền giữa ông Nguyễn Văn Tuấn và Lê Tuấn Kh xác định, Kh nhận của ông Tuấn tổng số tiền là 255.000.000 đồng.

Đối với ông Dương Xuân T2 đã nhiều lần đưa tiền cho Lê Tuấn Kh để nhờ xin việc cho chị Hoàng Thị D, Hán Minh H1 và chị Nguyễn T4. Xét thấy ông Dương Xuân T2 do tin tưởng Lê Tuấn Kh có khả năng xin được việc làm nên đã nhờ và đưa tiền cho Kh. Mặt khác, số tiền ông T2 đưa cho Kh đều là tiền của ông T2 ứng trước để nhờ xin việc nên ông T2 không đồng phạm với Lê Tuấn Kh. Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Hà Nội không đề cập xử lý đối với ông Dương Xuân T2.

Tại Cáo trạng số 146/CT-VKS-P3 ngày 07/5/2021 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Lê Tuấn Kh về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 409/2021/HS-ST ngày 25/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Lê Tuấn Kh phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm o, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 54 Bộ luật Hình sự; xử phạt Lê Tuấn Kh 11 (Mười một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 07/12/2021, bị cáo Lê Tuấn Kh kháng cáo giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo Lê Tuấn Kh vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Người bào chữa cho bị cáo có quan điểm: Nhất trí với về tội danh, điểm, khoản và điều luật áp dụng, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, hoàn cảnh gia đình bị cáo hiện nay khó khăn, bị cáo bị bệnh tai biến mạch máu não, bị cáo tuổi cao sức khỏe rất yếu, đã giao nộp các chứng cứ mới là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo và sửa bản án sơ thẩm, giảm hình phạt xuống mức án thấp nhất để bị cáo an tâm cải tạo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của bị cáo, kết luận: Bị cáo Lê Tuấn Kh bị Viện kiểm sát truy tố và Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại cấp phúc thẩm, bị cáo Kh xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ mới theo điểm x khoản, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo và sửa bản án sơ thẩm, giảm cho bị cáo Kh từ 01 đến 02 năm tù, không chấp nhận việc bị cáo đề nghị hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng các quy định về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Lê Tuấn Kh thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã quy kết. Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của những bị hại, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng; các giấy biên nhận tiền Lê Tuấn Kh viết cho những người nhờ xin việc; các kết luận giám định chữ viết của Lê Tuấn Kh của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội; Biên bản xác minh và Công văn trả lời của các đơn vị trả lời không tuyển dụng những người có tên mà Kh nhận tiền, Kh cũng không công tác tại các đơn vị này và không có chức năng tuyển dụng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử thống nhất với nhận xét và kết luận của Tòa án cấp sơ thẩm như sau: Từ năm 2013 đến năm 2018, Lê Tuấn Kh là đối tượng không có nghề nghiệp, nhưng đã có hành vi gian dối, tự giới thiệu mình có quen biết nhiều người và có khả năng xin được vào làm việc tại các Bệnh viện ở Hà Nội và ngành Công an. Các bị hại đã tin tưởng, nhiều lần đưa cho Kh hồ sơ và tổng số tiền là 1.260.000.000 đồng, cụ thể như sau: Từ ngày 26/9/2013 đến 11/7/2014, Lê Tuấn Kh đã nhận của ông Nguyễn Đức H tổng số tiền là 530.000.000 đồng để xin cho chị Nguyễn Thị Hương M vào làm việc tại Bệnh viện phụ sản Trung ương và chị Nguyễn Thị Ng vào làm việc tại Bệnh viện răng hàm mặt Trung ương; Từ ngày 23/01/2014 đến ngày 08/7/2014, Lê Tuấn Kh đã nhận của ông Dương Xuân T2 tổng số tiền là 405.000.000 đồng để xin cho chị Hoàng Thị D vào làm việc tại Viện vệ sinh an toàn thực phẩm - Bộ Y tế; chị Hán Minh H1 vào làm việc tại Viện Y tế dự phòng - Bộ Y tế và chị Nguyễn Thị T4 vào làm việc tại Bệnh viện phụ sản trung ương; Từ tháng 3/2016 đến tháng 8/2016, Lê Tuấn Kh đã nhận của ông Nguyễn Văn Tuấn tổng số tiền là 255.000.000 đồng để xin cho chị Nguyễn Thị Ngọc Ánh vào làm việc tại Bệnh viện phụ sản Trung ương; Ngày 28/12/2018, Lê Tuấn Kh đã nhận của ông Lê Văn U số tiền 70.000.000 đồng để xin cho anh Lê Đức A vào làm việc tại ngành Công an nhân dân. Sau khi nhận tiền và hồ sơ của 04 bị hại nêu trên, Lê Tuấn Kh không liên hệ, không nộp hồ sơ xin việc vào các cơ quan, mà chiếm đoạt toàn bộ số tiền trên, sử dụng tiêu xài cá nhân và chưa trả lại tiền cho các bị hại. Với hành vi nêu trên của Lê Tuấn Kh, đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, với tình tiết định khung “Chiếm đoạt từ 500.000.000đồng trở lên” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 (áp dụng Bộ luật Hình sự năm 2015 theo hướng có lợi cho bị cáo). Do vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã xét xử bị cáo Lê Tuấn Kh theo tội danh, điểm, khoản, điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét kháng cáo của bị cáo: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan nhà nước, gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Bị cáo dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt số tiền lớn, nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, đối với nhiều người nhưng đến nay chưa khắc phục cho bị hại, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết tăng nặng “phạm tội hai lần trở lên” theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ. Do vậy, cấp phúc thẩm đồng tình cách ly khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm cải tạo và giáo dục riêng bị cáo là cần thiết, cũng như phòng ngừa tội phạm nói chung. Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm xem xét: bị cáo thành khẩn khai nhận, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự; là người cao tuổi; đã khắc phục một phần cho bị hại; bị hại Tuấn đề nghị giảm nhẹ một phần hình phạt đã áp dụng điểm o, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt, xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt là có căn cứ. Trên cơ sở tính chất hành vi phạm tội, hậu quả, nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt Lê Tuấn Kh với mức hình phạt 11 (mười một) năm tù là thỏa đáng. Tại phiên tòa phúc thẩm, ngoài tình tiết giảm nhẹ mà cấp sơ thẩm đã áp dụng, bị cáo Kh xuất trình thêm tình tiết: là bệnh binh 2/3 đang hưởng trợ cấp hàng tháng; được tặng thưởng Huân chương chiến vẻ vang hạng 3; Giấy xác nhận của Sở Lao động Thương binh và Xã hội thành phố Hà Nội là người có công với cách mạng; Chiến sĩ thi đua và được tặng nhiều Giấy khen, Bằng khen của Cục Quân nhu; bị cáo trên 75 tuổi hiện nay sức khỏe rất yếu, nhiều bệnh nặng thể hiện tại phiếu khám bệnh; hoàn cảnh gia đình khó khăn… Xét thấy, căn cứ mà bị cáo xuất trình là tình tiết giảm nhẹ mới, cần áp dụng điểm v, x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo và giảm hình phạt cho bị cáo Kh, thể hiện sự nhân đạo và khoan hồng của pháp luật, nhưng vẫn đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay. Việc kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Kh không được chấp nhận.

[4]. Quan điểm Trợ giúp viên pháp lý đề giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là có cơ sở, được chấp nhận.

[5]. Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn căn cứ và lập luận của Kiểm sát viên đề nghị tại phiên tòa là có cơ sở, được chấp nhận.

[6]. Về án phí: Bi cao kháng cáo được chấp nhận nên không phải nộp an phi hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;

QUYẾT ĐỊNH

1. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Tuấn Kh.

2. Sửa Bản án Hình sự sơ thẩm số 409/2021/HS-ST ngày 25/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm o, s, v, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lê Tuấn Kh 09 (Chín) năm 06 (Sáu) tháng tù, về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt.

3. Về án phí: Bị cáo Lê Tuấn Kh không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

547
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 141/2022/HSPT

Số hiệu:141/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về