Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 131/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 131/2022/HS-PT NGÀY 08/04/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Vào ngày 08 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 58/2022/TLPT-HS ngày 28 tháng 01 năm 2022 đối các với bị cáo

Đoàn Ngọc H và VŨ VĂN T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do có kháng cáo của các bị cáo, bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số 97/2021/HS-ST ngày 27-12-2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:

1. ĐOÀN NGỌC H; sinh năm 1991, tại tỉnh Nam Định; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Số 49 đường P, phường H1, thành phố N, tỉnh Nam Định; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Không; tôn giáo: Phật giáo; con ông Đoàn Ngọc L và bà Nguyễn Thị Nam L1; có vợ Đỗ Thị Th và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt giam ngày 16/01/2020; có mặt.

2. VŨ VĂN T; sinh năm 1991 tại tỉnh Thái Nguyên; nơi ĐKHKTT và chỗ ở: xóm Đ, xã T1, huyện Đ1, tỉnh Thái Nguyên; trình độ văn hóa: 5/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; tôn giáo: Phật giáo; con ông Vũ Văn C và bà Vi Thị H2; có vợ Phạm Thị Đ2 (đã ly hôn) và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 01/02/2021 bị Tòa án nhân dân huyện C1, thành phố Hà Nội xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; bị bắt giam ngày 21/8/2020; có mặt.

* Người bào chữa cho các bị cáo:

- Ông Nguyễn Huy V, luật sư, Công ty luật TNHH MTV NG thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng; bào chữa cho bị cáo Đoàn Ngọc H theo yêu cầu của TAND cấp cao tại Đà Nẵng, có mặt.

- Ông Thái Quốc V1, luật sư, Công ty luật TNHH MTV TT thuộc Đoàn luật sư thành phố Đà Nẵng; bào chữa cho bị cáo VŨ VĂN T theo yêu cầu của TAND cấp cao tại Đà Nẵng, có mặt.

* Bị hại có kháng cáo:

- Công ty TNHH M; địa chỉ: Số 244 đường Đ3, thành phố Đà Nẵng. Đại diện theo pháp luật: Ông Trương Trọng Ng; sinh năm 1991; chức vụ: Giám đốc Công ty; đại diện theo ủy quyền: Ông Bùi Xuân S, nhân viên điều hành công ty, có mặt.

Ngoài ra, trong vụ án còn có những bị hại khác, những người có quyền có lợi, nghĩa vụ liên quan không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong khoảng thời gian từ ngày 05/12/2019 đến ngày 05/01/2020, Đoàn Ngọc H đến thành phố Đà Nẵng và thành phố Huế thuê tổng cộng 06 xe ô tô và VŨ VĂN T đến thành phố Đà Nẵng thuê 01 xe ô tô. Sau khi thuê được xe H và T đem những xe ô tô này ra Hà Nội, H thông qua T để cầm cố xe ô tô cho Phạm Anh N4, tiền cầm cố tất cả các xe ô tô H đều nhận từ T. Số tiền này H trả tiền môi giới cho T và sử dụng tiêu xài hết. Cụ thể:

Lần 1: Chiều ngày 05/12/2019, Đoàn Ngọc H đến Công ty TNHH T2 gặp ông Nguyễn Chí Q1 là Phó giám đốc công ty để thuê xe ô tô Madaz 6 BKS 43A-245.52 (có trị giá 508.639.500 đồng), thời hạn thuê 05 ngày. Ngày 08/12/2019, H điều khiển xe đi Hà Nội, trên đường đi H tháo định vị khỏi xe. Sau đó, thông qua VŨ VĂN T, H cầm xe ô tô cho Phạm Anh N4 lấy 140.000.000 đồng, H khai chỉ nhận 130.000.000 đồng từ T, số tiền còn lại trả lãi trước cho Nam, trả tiền môi giới cho T 7.000.000 đồng. Đến hạn, H điện thoại cho ông Q1 gia hạn thời hạn thuê xe. Quá trình thuê xe, H vẫn chuyển tiền trả cho ông Q1 đầy đủ.

Đến thời hạn thấy H không đưa xe đến trả, ông Q1 nhiều lần điện thoại để đòi xe và kiểm tra thiết bị định vị xe thì phát hiện thiết bị định vị 1 được gắn vào một xe máy hoạt động ở Quảng Bình, thiết bị định vị 2 lần cuối được xác nhận ở xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội và sau đó cũng bị ngắt kết nối. Khi Đoàn Ngọc H bị bắt giữ, H đã cung cấp số điện thoại của VŨ VĂN T là 0338406789 để ông Q1 tự liên hệ lấy lại xe ô tô nhưng T không đồng ý, ông Q1 đã nhờ một số người quen (không biết rõ lai lịch) ở Hà Nội liên hệ với T và đã chi phí 300.000.000 đồng để nhận lại xe ô tô này.

Lần 2: Ngày 13/12/2019, H liên lạc với ông Tôn Thất Thái S thuê xe ô tô hiệu Mazda 3 màu trắng BKS 75A-095.65 (có trị giá 369.200.000 đồng), thời hạn thuê 10 ngày. Sau đó, H đưa xe ra Hà Nội, thông qua VŨ VĂN T để cầm xe cho Phạm Anh N4 với số tiền 100.000.000 đồng.

Đến hạn nhưng không thấy H trả xe, ông S nhiều lần điện thoại để đòi xe nhưng không được. Qua kiểm tra hệ thống định vị xe ô tô, ông S xác định vị trí cuối cùng của xe ở Xuân Mai, Chương Mỹ, Hà Nội. Chiếc xe này hiện không thu hồi được.

Lần 3: Ngày 15/12/2019, H liên lạc với ông Trương Trọng Ng (Giám đốc Công ty M) để thuê xe ô tô Madaz 3 BKS 43A – 479.35 (có trị giá 438.685.000 đồng), thời hạn thuê xe là 17 ngày. Ông Ng giao cho ông Trương Trọng Nh1 là nhân viên công ty đem xe ô tô đến sân bay Đà Nẵng giao cho H. Trên đường đưa xe ra Hà Nội, H tháo thiết bị định vị và thông qua VŨ VĂN T đem xe cầm cố cho Phạm Anh N4 lấy 140.000.000 đồng, H nhận 100.000.000 đồng, trả lãi cho Nam 20.000.000 đồng và đưa cho T 20.000.000 đồng tiền môi giới. Chủ sở hữu chiếc xe là ông Bùi Xuân S. Ông S giao xe cho ông Ng quản lý để cho khách thuê. Đến hạn, H không trả xe, ông Ng nhiều lần liên lạc đòi lại xe nhưng không được. Qua thiết bị định vị, ông S phát hiện tín hiệu xe ở Quảng Bình, sau đó mất kết nối. Ông S cùng với ông Nguyễn Chí Q1 (chủ sở hữu xe 43A-245.52) đã tự đi tìm và chi phí 260.000.000 đồng để nhận lại xe ô tô này.

Lần 4: Ngày 20/12/2019, H liên lạc với ông Nguyễn Quốc V2 là người quản lý xe của Công ty T3 để thuê xe ô tô Kia Cerato BKS 43A-436.73 (có trị giá 587.565.500 đồng), thời hạn thuê 10 ngày. Ông V2 giao cho ông Châu Minh Đ5 là nhân viên của công ty đem xe ô tô đến khách sạn H4, số 10 Đào Trinh Nhất, phường Vĩ Dạ, thành phố Huế giao xe cho H. Trên đường đưa xe ra Hà Nội, H tháo thiết bị định vị, sau đó thông qua VŨ VĂN T để cầm xe cho Phạm Anh N4 lấy 140.000.000 đồng. H khai nhận 90.000.000 đồng, số còn lại trả lãi vay tiền trước đó cho Nam và trả tiền môi giới cho T là 15.000.000 đồng.

Chủ sở hữu xe ô tô này là bà Ngô Thị Tường Vi. Bà Vi giao xe cho ông V2 quản lý để cho khách thuê. Đến hạn, H không trả xe, ông V2 kiểm tra lịch trình di chuyển của xe xác định vị trí cuối cùng tại K59 đường An Dương V2, thành phố Huế. Chiếc xe này hiện không thu hồi được.

Lần 5: Ngày 24/12/2019, H đến Công ty Đại Gia Định hợp đồng với ông Dương Văn Định thuê xe ô tô hiệu Kia Cerato BKS 47A-298.72 (có trị giá 591.885.700 đồng) của ông Hà Xuân Tuyến, thời hạn thuê 02 ngày. Sau khi thuê xe, H tháo thiết bị định vị của xe rồi đưa xe ra Hà Nội, thông qua T cầm xe cho Nam lấy 140.000.000 đồng. H khai nhận 100.000.000 đồng, số còn lại trả lãi cho Nam và trả tiền môi giới cho T. Chiếc xe hiện nay không thu hồi được.

Lần 6: Ngày 29/12/2019, VŨ VĂN T nhờ H tìm kiếm nơi thuê xe và H đã giới thiệu T liên hệ Công ty T3 để thuê xe ô tô. Ông Nguyễn Quốc V2 quản lý của công ty ký hợp đồng cho T thuê xe ô tô hiệu Kia Cerato màu trắng BKS 43A- 379.18 (có trị giá 531.428.500 đồng), thời hạn thuê 15 ngày, T trả trước số tiền thuê xe 10.000.000 đồng. Sau khi thuê xe, T điều khiển xe chở Đoàn Ngọc H và Trần Đức Tuấn (là em họ của H) đi ra Hà Nội. Khi đến khu vực ga Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, lúc này khoảng 02 giờ sáng ngày 30/12/2019, T và H tháo thiết bị định vị của xe rồi gắn vào 01 bình ắc quy (do H nhờ 01 người đi xe ôm, không rõ lai lịch, ở thành phố Huế mua giúp và nhận khi đi ngang địa điểm này). H khai do Phạm Anh N4 không đồng ý cầm xe cho T nên H nhận chiếc xe này là của H, sau đó T nhận tiền từ Nam, H không rõ nhận bao nhiêu.

Đến ngày 03/01/2019, ông V2 phát hiện xe ô tô cho T thuê bị mất tín hiệu định vị nên liên lạc với T qua số điện thoại 0338406789, T cho biết đã giao xe cho người khác sử dụng. Ông V2 kiểm tra lịch trình di chuyển của xe và xác định địa chỉ cuối cùng của xe tại K59 An Dương Vương, thành phố Huế nhưng không có xe ô tô tại đây. Xe ô tô chưa thu hồi được.

Lần 7: Ngày 05/01/2020, H liên lạc với ông Đào Vĩnh K thuê xe ô tô BKS 75A-107.63 (có trị giá 325.000.000 đồng) thuộc sở hữu của ông Hồ Văn M. Sau khi thuê, H trao đổi với T để tháo thiết bị định vị rồi đưa xe ra Hà Nội và thông qua VŨ VĂN T cầm xe cho Phạm Anh N4 lấy 100.000.000 đồng và đã tiêu xài hết. Chiếc xe này hiện không thu hồi được.

Lần 8: Ngoài các lần thuê xe chiếm đoạt tài sản nêu trên, vào tháng 10/2018, Đoàn Ngọc H gặp ông Nguyễn Bội Nghĩa đang điều trị bệnh thận tại Bệnh viện Trung ương Huế. Mặc dù không có khả năng tìm người hiến thận nhưng H vẫn hứa hẹn sẽ tìm người có thận tương thích để ghép cho ông Ng. Tin lời của H, ông Ng đã giao cho H số tiền 400.000.000 đồng để lo việc này. Nhận được tiền, H đã tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 97/2021/HS-ST ngày 27-12-2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Đoàn Ngọc H, VŨ VĂN T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Đoàn Ngọc H 13 (Mười ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 16/01/2020.

- Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: VŨ VĂN T 12 (Mười hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam, ngày 21/8/2020.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 10/01/2022, các bị cáo Đoàn Ngọc H và VŨ VĂN T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 11/01/2022, bị hại Công ty TNHH M do ông Trương Trọng Ng đại diện theo pháp luật có đơn kháng cáo với nội dung: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xử tăng hình phạt đối với bị cáo Đoàn Ngọc H và buộc bị cáo Đoàn Ngọc H phải bồi thường chi phí mà công ty bỏ ra chuộc lại xe ô tô với số tiền 260.000.000đ.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Đoàn Ngọc H, VŨ VĂN T và bị hại Công ty TNHH M do ông Bùi Xuân S đại diện theo ủy quyền đều giữ nguyên yêu cầu kháng cáo. Bị cáo Đoàn Ngọc H xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo VŨ VĂN T thay đổi kháng cáo kêu oan. Ông Bùi Xuân S yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xử tăng hình phạt đối với bị cáo Đoàn Ngọc H và yêu cầu bị cáo Đoàn Ngọc H bồi thường cho công ty TNHH M số tiền bỏ ra để chuộc lại xe ô tô là 260.000.000 đồng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đoàn Ngọc H, VŨ VĂN T và kháng cáo của bị hại Công ty TNHH M, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Lời bào chữa của luật sư cho bị cáo Đoàn Ngọc H nhất trí về phần tội danh và khung hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng để xét xử đối với bị cáo H. Luật sư nêu lên các tình tiết giảm nhẹ, trong đó có tình tiết giảm nhẹ mới là gia đình bị cáo đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng số tiền 25.000.000 đồng để khắc phục hậu quả nên đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H.

Lời bào chữa của luật sư cho bị cáo VŨ VĂN T cho rằng trong quá trình điều tra chưa làm rõ chiếc xe ô tô do VŨ VĂN T thuê nên đề nghị Hội đồng xét xử Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án; Căn cứ vào các tài liệu có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

1. Mặc dù bị cáo VŨ VĂN T thay đổi kháng cáo kêu oan, nhưng căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Đoàn Ngọc H, lời khai của bị cáo VŨ VĂN T trong quá trình điều tra vụ án và các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 05.12.2019 đến ngày 05.01.2020, Đoàn Ngọc H cùng với VŨ VĂN T đã cấu kết thuê 07 xe ô tô của những bị hại tổng trị giá 3.352.404.200 đồng rồi đem cầm cố lấy tiền tiêu xài. Trong đó, Đoàn Ngọc H trực tiếp thuê 06 xe ô tô, VŨ VĂN T trực tiếp thuê 01 xe ô tô. Ngoài ra, vào tháng 10/2018 tại bệnh viện Trung ương Huế, Đoàn Ngọc H nói dối tìm người hiến thận rồi chiếm đoạt của ông Nguyễn Bội Nghĩa số tiền 400.000.000 đồng.

Hành vi nêu trên của các bị cáo Đoàn Ngọc H, VŨ VĂN T đã bị Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng xét xử về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

2. Bản án sơ thẩm đánh giá đúng tính chất nghiêm trọng của vụ án, mức độ phạm tội, đồng thời xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt Đoàn Ngọc H 13 năm tù, VŨ VĂN T 12 năm 06 tháng tù. Đối với bị cáo Đoàn Ngọc H sau khi xử sơ thẩm đã tác động với gia đình nộp tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng số tiền 25.000.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0001755 ngày 04/3/2022 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng để khắc phục hậu quả. Nhưng xét, mức hình phạt trên là không nặng, tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra. Đối với bị cáo VŨ VĂN T không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đoàn Ngọc H, VŨ VĂN T, kháng cáo của bị hại Công ty TNHH M cũng như lời bào chữa của luật sư cho các bị cáo H và T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

3. Về phần trách nhiệm dân sự:

Ông Trương Trọng Ng là người đại diện theo pháp luật Công ty TNHH M kháng cáo yêu cầu bị cáo Đoàn Ngọc H phải bồi thường khoản chi phí mà công ty bỏ ra để chuộc lại xe ô tô với số tiền 260.000.000 đồng, nhưng chưa cung cấp tài liệu chứng minh các khoản đã chi phí nên Tòa án cấp sơ thẩm dành cho Công ty TNHH M quyền khởi kiện dân sự khi có yêu cầu. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại công ty TNHH M không cung cấp được chứng cứ gì mới, đồng thời bị cáo Đoàn Ngọc H cũng không thỏa thuận được việc bồi thường nên không chấp nhận kháng cáo của bị hại Công ty TNHH M và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo Đoàn Ngọc H, VŨ VĂN T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Những phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên không xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Đoàn Ngọc H, VŨ VĂN T và kháng cáo của bị hại Công ty TNHH M, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố: Các bị cáo Đoàn Ngọc H, VŨ VĂN T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174, điểm b, g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo Đoàn Ngọc H áp dụng thêm điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt:

- Đoàn Ngọc H 13 (mười ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/01/2020.

- VŨ VĂN T 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/8/2020.

2. Về án phí: Đoàn Ngọc H, VŨ VĂN T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

576
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 131/2022/HS-PT

Số hiệu:131/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về