Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 817/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 817/2022/HS-PT NGÀY 27/10/2022 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 27 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 536/2022/TLPT-HS ngày 02 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo Phạm Hữu Anh C và các bị cáo khác, do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 17/2022/HSST ngày 27 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Phạm Hữu Anh C (tên gọi khác: C Lé) sinh năm 1990 tại tỉnh Thừa Thiên Huế; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 5, khu phố T, phường T, thành phố X, tỉnh Bình Phước; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 08/12; nghề nghiệp: Không; con ông Phạm Hữu T, sinh năm 1957 và bà Lâm Thị Đoan T, sinh năm 1967, bị cáo có 03 anh em, bị cáo thứ ba trong gia đình, có vợ là Lê Minh T (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân:

- Ngày 09/12/2011 bị Tòa án nhân dân huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước xử phạt 36 tháng tù về tội “ Cố ý gây thương tích” tại Bản án số 118/2011/HSST, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 31/8/2013, đóng án phí xong ngày 22/8/2012;

- Ngày 18/9/2015 bị Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước xử phạt 03 tháng 11 ngày tù, bằng thời hạn đã tạm giam, tạm giữ về tội “Đánh bạc” tại Bản án số 117/2015/HSST và Bản án số 04/2016/HSPT ngày 11/01/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước, bị cáo đã chấp hành xong vào ngày 02/5/2018.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 31/12/2021 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thành L(tên gọi khác: L Trọc) sinh năm 1992 tại tỉnh Bình Phước; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Khu phố H, phường T, thành phố X, tỉnh Bình Phước; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Lâm S, sinh năm 1960 và bà Võ Thị Thu H, sinh năm 1970, bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình, có vợ là Võ Thị Mỹ L (đã ly hôn) và 02 con lớn sinh năm 2012, nhỏ sinh năm 2020; Tiền án:

- Ngày 18/11/2009 bị Tòa án nhân dân thị xã Đồng Xoài xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 89/2009/HSST, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 12/3/2010 nhưng chưa được xóa án tích, do chưa đóng án phí;

- Ngày 28/7/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án số 94/2015/HSST (bản án tính tái phạm Bản án số 89/2009/HSST), - Ngày 14/8/2015 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 91/2015/HSPT (giữ nguyên Bản án số 69/2015/HSST ngày 28/5/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài).

Tại Quyết định tổng hợp hình phạt số 01/2015/QĐTH-THA ngày 31/8/2015 tổng hình phạt bị cáo chấp hành của hai Bản án số 94/2015/HSST và Bản án số 91/2015/HSPT là 04 năm tù. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù hai bản án vào ngày 12/02/2018. Chấp hành xong án phí của Bản án số 94/2015/HSST vào ngày 06/6/2019, Bản án số 91 và 69 bị cáo chưa chấp hành xong án phí và trách nhiệm dân sự) Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 01/02/2021 đến ngày 01/7/2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh cho đến nay.

Trước khi khai mạc phiên tòa bị cáo đến tòa trình diện và nộp giấy triệu tập, căn cước công dân nhưng sau đó không tham gia phiên tòa.

3. Đỗ Ngọc H (tên gọi khác: Phệ) sinh năm 1999 tại tỉnh Bình Thuận; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 4, xã N, huyện Đ, tỉnh Bình Phước; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 01/12; nghề nghiệp:

Buôn bán; con ông Đỗ Ngọc V, sinh năm 1968 và bà Trần Thị C, sinh năm 1968, bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình, bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án: Ngày 19/11/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước xử phạt 01 năm 06 tháng tù về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại Bản án số 69/2018/HSST, bị cáo đã chấp hành xong bản án vào ngày 01/12/2019.

Tiền sự: Không;

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 01/02/2021 đến ngày 01/7/2021 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cho bảo lĩnh cho đến nay; bị cáo vắng mặt tại phiên tòa.

Ngoài ra trong vụ án còn có người tham gia tố tụng khác nhưng không liên quan đến kháng cáo nên không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 08/01/2021, tại quán cà phê “Nắng” thuộc khu phố 4, phường Đ, thành phố X, Phạm Lý Thúy A là chủ quán bị Đào Thanh T vô cớ chửi và dùng tay đánh vào mặt và đầu của An.

Bị T đánh nên A gọi điện thoại cho bạn trai là Nguyễn Huy S kể lại sự việc, lúc này S đang ở tại quán cà phê “Tam Giác” thuộc phường Tân Phú, thành phố Đồng Xoài cùng với Lê Hoàng Trung H (Bi), Đào Xuân H, Nguyễn Thành L(L Trọc), Trần Minh K. S nói cho cả nhóm biết “A bị đánh”, thì cả nhóm nghe và cùng đi đến quán cà phê “Nắng”, khi đi thì H có cầm theo 01 bao hung khí gồm nhiều cây tuýp sắt. Phạm Hữu Anh C (C Lé) và Đỗ Ngọc H là bạn của S biết việc A bị đánh nên cũng đến quán Nắng. Trên đường đi, L chở S và K có ghé vào nhà nghỉ “Lê Sáu” thuộc khu phố M, phường P, thành phố Đồng Xoài thì gặp Nguyễn Đình T, B (chưa rõ nhân thân, lai lịch) và kể cho T, B biết chuyện A bị đánh rồi S, L, K, T, B đi về quán “Nắng” để giải quyết mâu thuẫn giúp S.

Tại quán Nắng, C gọi điện thoại cho T hỏi lý do vì sao T đánh A và Ngân rồi thách thức hẹn gặp đánh nhau tại khu vực quán Nắng. Sau đó, S, C, L (L Trọc), H, K, T, H1, H2 và B, T1 cùng với 03 thanh niên (chưa rõ nhân thân, lai lịch) tập trung tại quán cà phê “Anh Em” (gần quán Nắng) đối diện cây xăng Tiến Thành thuộc khu phố Phú Mỹ, phường Tân Phú và lấy hung khí tại quán cà phê “Nắng”, quán “Anh Em” cùng với hung khí do H mang đến chia nhau sử dụng.

Do đợi nhóm T lâu nên C gọi điện thoại cho T tiếp tục thách thức đánh nhau và nhóm của C chia làm hai nhóm: Nhóm đứng ở khu vực cây xăng Tiến Thành có S, L (L Trọc) mỗi người cầm một cây dao rựa, H cầm gậy ba khúc và K cầm ống tuýp sắt; nhóm ở khu vực quán cà phê Anh Em (đối diện cây xăng) có C cầm đá và rựa, H1 cầm một cây rựa và một khẩu súng tự chế loại Rulo dạng Colt xoay (đồ chơi nguy hiểm) H2, T cầm tuýp sắt và T1, B cùng với 03 đối tượng khác (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đứng ở quán cà phê Anh Em, đợi nhóm T đến.

Đối với T, sau khi nghe điện thoại của C thách thức đánh nhau thì T gọi điện thoại cho Phạm Công B (B Mơ) để rủ B đi giải quyết mâu thuẫn với C. Sau đó, nhóm T và B có người gọi điện thoại cho Bùi Văn Thường (còn gọi là Dương Bếch) nói “Xem có thằng nào sang chỗ nhà anh B đi hộ tí việc, đang cãi nhau với thằng C Lé trên này”. Lúc này Thường đang ở quán bắn cá của Thường tại số 318, đường Nguyễn Huệ, phường Tân Xuân, thành phố Đồng Xoài cùng với Nguyễn Thành Lvà Trần Ngọc Thành, Thường nói với L, Thành: “Hai thằng đi kiếm dao, chạy lên đó xem thế nào”. Thành và L đi tìm hung khí thì Thường nói “ở trong góc có con dao đó”. Sau đó, Thường gọi điện thoại cho Hoàng Xuân T1 điều khiển xe đến tiệm của Thường chở L và Thành đi có việc. Khi T1 điều khiển xe ô tô biển số 93A-067.12 đến thì L, Thành cầm 01 con dao phóng và 01 con dao rựa bỏ lên xe và T1 điều khiển xe đến nhà B.

Đối với B, sau khi nghe điện thoại của T thì B điều khiển xe ô tô biển số 93A - 175.11 chở theo Trần Văn Khuyên và Khanh, L, Tèo (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) trên xe có sẵn 01 cây rựa, 02 cây gậy bóng chày đi từ hẻm nhà B ra, khi đi khoảng 50m thì gặp xe do T điều khiển đến. T xuống xe nói chuyện với B rồi cả hai lên xe điều khiển đi gặp nhóm C. Cùng lúc này, T1 cũng điều khiển xe đến hẻm nhà B, thấy xe B và T đang đi ra nên T1 lùi xe lại cho xe T đi trước còn T1 chạy theo sau, xe B chạy cuối cùng, cả 03 xe cùng đi đến quán cà phê Nắng để gặp nhóm C.

Khi thấy xe của T đến, nhóm S và C cầm hung khí chạy dọc hai bên đường hướng từ Phước L đi Đồng Xoài đến chặn đánh xe của T. Lúc này, Phước ngồi ghế phụ phía trước xe do T điều khiển, cầm súng (không thu hồi được) bắn về phía nhóm C, S nhưng không trúng ai, đồng thời nhóm C, S dùng đá và hung khí ném về phía xe T, khi thấy Phước dùng súng bắn và đi đông người nên nhóm C, S chạy tản ra. T tấp xe vào lề đường thì T, Mạnh, Tân mở cửa xuống xe cầm theo rựa, Phước cầm súng và nhặt đá, T1 Anh nhặt 01 cây tuýp sắt trên đường (do nhóm của C ném vào xe) đuổi đánh nhóm C, S. Lúc này, C ném xong thì quay lùi lại (cách dải phân cách 40cm) bị va chạm với xe của B vừa chạy đến, khiến C mất thăng bằng và chạy lùi về phía khu vực Ban chỉ huy quân sự thành phố Đồng Xoài. Lúc này, T cầm rựa đuổi theo C, khi T đuổi kịp thì C cầm rựa chém về phía T nhưng không trúng nên rựa bị rơi khỏi tay và C cũng ngã ngữa xuống đường. T chạy tới đứng cách C khoảng 01 mét, cầm rựa chém một nhát từ trên xuống trúng đầu C làm C bất tỉnh.

Cùng lúc này, xe của B và T1 cũng tấp vào lề đường, B cầm 01 con dao rựa, Khuyên cầm 01 cây gậy bóng chày; L cầm 01 con dao rựa, Thành cầm 01 con dao phóng cùng đuổi theo đánh nhóm C. Khi thấy nhóm đi trên xe B và T1 cầm hung khí chạy tới và thấy trên đầu C máu chảy nhiều nên T nói “xong rồi, đi về thôi”. Sau đó, T chở Phước, Mạnh, Tân, T1 Anh về Bình Dương trốn, khi đi qua cầu Sông Bé thì dừng xe, vứt điện thoại, súng và hung khí xuống sông Bé thuộc xã Phước Hòa, H2ện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. B điều khiển xe chạy đến đường Nguyễn Huệ thì vứt bỏ hung khí rồi cùng KH2ên và 03 đối tượng chưa rõ nhân thân đến tỉnh Bình Thuận trốn. T1 chở L, Thành về lại tiệm bắn cá của Thường bỏ hung khí tại đó rồi điều khiển xe về nhà.

Đến các ngày 13, 14, 15/01/2021, Đào Thanh T, Phan Văn Phước, Phạm Công B, Trần Văn KH2ên và Nguyễn Thành Lđến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Xoài đầu thú, Văn Tiến Anh, Nguyễn Trọng Mạnh, Lê Minh Tân, Hoàng Xuân T1 và Trần Ngọc Thành bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Đồng Xoài bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Quá trình làm việc, các đối tượng đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như trên.

Đối với nhóm C và S, khi thấy T chém C nên hoảng sợ, bỏ chạy. Còn C được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Phước rồi cH2ển viện đến Bệnh viện Chợ Rẫy điều trị.

Tại Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 61/2021/TgT ngày 11/3/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Phước đối với Phạm Hữu Anh C, kết luận:

“1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Vết thương sọ não + dập não trán - đỉnh phải đã phẫu thuật gặm sọ lõm (sẹo mổ trán - đỉnh - chẩm phải kích thước 20x0,3cm gọn), di chứng kH2ết sọ trán – đỉnh – chẩm phải kích thước 15x3cm đáy mềm, liệt hoàn toàn ½ người bên trái, còn tổn thương nhu mô não vùng đỉnh 2 bên đường kính 7cm.

- Sẹo đỉnh phải kích thước 0,8x0,1 cm gọn, mềm.

- Sẹo dọc thái dương đỉnh trái kích thước 5x0,2cm gọn, mềm.

Tổn thương có đặc điểm của tổn thương do vật có cạnh sắc tác động theo hướng từ trên xuống dưới, từ trước ra sau, chếch trước trái sau phải (so với cơ thể bị hại); không xác định được lực tác động.

- Sẹo trước – trong cổ chân phải kích thước 1x0,1cm lồi.

Tổn thương có đặc điểm của tổn thương do vật có cạnh sắc tác động theo hướng từ trước ra sau; không xác định được lực tác động.

Tỷ lệ tổn thương có thể do thương tích gây nên hiện tại là: 84% (Tám Bốn phần trăm)” Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2022/HSST ngày 27 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước đã tuyên xử:

Tuyên bố các bị cáo Phạm Hữu Anh C, Nguyễn Thành L(L Trọc), Đỗ Ngọc H phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Áp dụng điểm b, e khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L(L Trọc) mức hình phạt 30 (Ba mươi) tháng tù.

Thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Được khấu trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam trước đó từ ngày 01/02/2021 đến ngày 01/7/2021.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 50;

Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đỗ Ngọc H mức hình phạt 30 (Ba mươi) tháng tù.

Thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Được khấu trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam trước đó từ ngày 01/02/2021 đến ngày 01/7/2021.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Hữu Anh C mức hình phạt 30 (Ba mươi) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo khác, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 04/7/2022, bị cáo Nguyễn Thành L, sinh năm 1992 (tên gọi khác: L Trọc) kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 05/7/2022, Phạm Hữu Anh C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Ngày 07/7/2022, Đỗ Ngọc H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Trước khi mở phiên tòa, bị cáo Đỗ Ngọc H rút toàn bộ kháng cáo.

Tại phiên tòa hôm nay các bị cáo C, L vẫn giữ nguyên kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:

Về tố tụng: Cấp phúc thẩm đã thực hiện đúng các quy định, không vi phạm tố tụng.

Về nội dung kháng cáo của bị cáo:

Bị cáo H1 đã rút kháng cáo, đề nghị đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo H1.

Đối với bị cáo L (tên gọi khác L Trọc): Bị cáo L đã đến phiên tòa nhưng không tham gia phiên tòa nên đề nghị xét xử theo thủ tục chung. Bị cáo L kháng cáo nhưng không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, mức án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp. Đề nghị bác kháng cáo của L.

Đối với kháng cáo của C: Bị cáo C đồng thời là bị hại trong vụ án, bị cáo bị chém vào đầu dẫn đến bị liệt hoàn toàn 1/2 cơ thể bên trái, bị động kinh, tỷ lệ thương tích 84%, việc xử phạt tù sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe của bị cáo, đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo C, xử phạt bị cáo 30 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 60 tháng.

Bị cáo C trình bày: Bị cáo không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]- Về tố tụng: Trước khi mở phiên tòa, bị cáo Đỗ Ngọc H có đơn rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo. Căn cứ Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đỗ Ngọc H. Phần quyết định về hình phạt của bản án sơ thẩm số 17/2022/HSST ngày 27 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước đối với bị cáo Đỗ Ngọc H có hiệu lực pháp luật.

Bị cáo L đã đến phiên tòa nhưng không tham gia phiên tòa từ phần thủ tục bắt đầu phiên tòa nên đề nghị xét xử theo thủ tục chung.

[2]- Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo C đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cấp sơ thẩm đã kết luận. Căn cứ lời khai của bị cáo C, L (L Trọc) phù hợp với lời khai của các bị cáo khác, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ căn cứ kết luận:

Vào lúc 14 giờ 30 phút ngày 08/01/2021 tại quán cà phê Nắng thuộc khu phố 4, phường Đ, thành phố X, do muốn giải quyết mâu thuẫn với người tên Phát (không rõ lai lịch, địa chỉ), nghĩ Phát là chủ quán cà phê Nắng, Đào Thanh T đến quán Nắng tìm Phát thì xảy ra to tiếng, T dùng tay đánh vào mặt, đầu của Phạm Lý Thúy A, Phạm Lý Huỳnh Ngân là chủ quán Nắng, do được can ngăn nên T bỏ đi. Sau khi bị đánh, A gọi điện thoại kể cho Nguyễn Huy S biết việc bị T đánh A nên S cùng Phạm Hữu Anh C, Lê Hoàng Trung H, Đào Xuân H, Nguyễn Thành L(L Trọc), Trần Minh K, Đỗ Ngọc H, Nguyễn Đình T, B, T1 và 03 đối tượng khác (B, T1 và 03 đối tượng khác hiện chưa xác định được nhân thân lai lịch) chuẩn bị hung khí là dao rựa, đá, súng, cây tuýp sắt, gậy ba khúc tập hợp tại quán cà phê Nắng để thách thức, đánh nhau với nhóm của T. Tại đây, C gọi điện cho T hẹn đánh nhau với nhóm C thì T đồng ý. T điều khiển xe ô tô chở Phan Văn Phước, Nguyễn Trọng Mạnh, Lê Minh Tân, Văn Tiến Anh mang theo 01 khẩu súng, 03 cây rựa chạy trước; Hoàng Xuân T1 điều khiển xe ô tô chở Trần Ngọc Thành, Nguyễn Thành Lmang theo 01 con dao rựa, 01 cây dao phóng đi theo sau xe T; B điều khiển xe ô tô chở Trần Văn Khuyên, Khanh, L, Tèo (Khanh, L, Tèo chưa rõ nhân thân, lai lịch) mang theo 01 cây rựa, 02 cây gậy bóng chày chạy cuối cùng, cùng điều khiển đến khu vực quán Nắng đánh nhau với nhóm C.

Khi xe nhóm T đến, nhóm của C dùng đá, cây tuýp sắt, rựa ném vào đầu xe của T điều khiển thì Phước dùng súng bắn vào nhóm của C. T tấp vào lề đường, dừng xe lại thì T, Phước, Tiến Anh, Mạnh, Tân lấy hung khí, xuống xe đuổi đánh nhóm của C. Sau khi ném hung khí vào xe T, C quay lại bỏ chạy thì quẹt vào đầu xe do B điều khiển làm C mất thăng bằng và chạy lùi lại phía sau, khi T đuổi kịp thì C dùng rựa chém T nhưng không trúng, làm rơi cây rựa, C té ngã ngửa xuống đường thì T dùng 01 cây dao rựa chém 01 nhát vào vùng đầu của C, C ngã gục tại chỗ. Khi thấy C đã bị T chém gây thương tích nên cả nhóm của T đi về. Hậu quả do hành vi của các bị cáo gây ra đã gây thương tích cho bị hại C 84%, liệt hoàn toàn nửa người bên trái.

Cấp sơ thẩm kết luận các bị cáo L (L Trọc), C phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” theo khoản 2 Điều 318 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[1]- Xét kháng cáo của các bị cáo thì thấy:

Hành vi của các bị cáo C, L (L Trọc) là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo dùng hung khí đuổi đánh nhau với nhóm của T giữa ban ngày, tại nơi công cộng, gây mật trật tự, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trị an của địa phương nên phải xử phạt thật nghiêm minh.

Đối với bị cáo L (L Trọc): Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Bị cáo trước kia đã bị tòa án phạt tù nhưng không lấy đó làm bài học, không chịu cải tạo mà tiếp tục phạm tội. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của L (L Trọc).

Đối với bị cáo C: Hành vi phạm tội của bị cáo dùng hung khí cùng với các bị cáo khác trong nhóm đánh nhau với nhóm của T tại nơi công cộng gây mất trật tự trị an. Bị cáo có nhân thân xấu, ý thức chấp hành pháp luật không tốt nên phải xử phạt thật nghiêm minh. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo cũng đồng thời là bị hại trong vụ án. Bị cáo bị T chém vào đầu. Theo kết quả giám định thì bị cáo bị Vết thương sọ não + dập não trán - đỉnh phải, di chứng khuyết sọ trán – đỉnh – chẩm phải kích thước 15x3cm đáy mềm, liệt hoàn toàn ½ người bên trái, còn tổn thương nhu mô não vùng đỉnh 2 bên đường kính 7cm, Tỷ lệ thương tích 84/%. Hiện bị cáo sức khỏe yếu, không có khả năng lao động, vẫn phải điều trị, gia đình khó khăn, có con nhỏ sinh năm 2016, vợ đã ly hôn, bị cáo phải nuôi con. Quá trình điều tra, xét xử bị cáo luôn thành khẩn, thể hiện thái độ thực sự ăn năn, hối cải, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần thiết bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo hưởng án treo. Vì vậy, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, xử phạt bị cáo 30 tháng tù nhưng cho bị cáo hưởng án treo. Việc cho bị cáo hưởng án treo đối với tình trạng sức khỏe của bị cáo hiện nay cũng không gây nguy hiểm cho xã hội, đồng thời cũng đủ giáo dục, cải tạo bị cáo, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật đối với người tàn tật không còn khả năng lao động.

Bị cáo L (L Trọc) phải chịu án phí phúc thẩm. Bị cáo C không phải chịu án phí phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1- Căn cứ Điều 348 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Đỗ Ngọc H. Phần quyết định về hình phạt của bản án sơ thẩm số 17/2022/HSST ngày 27 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước đối với bị cáo Đỗ Ngọc H có hiệu lực pháp luật.

2- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự, Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành L, sinh năm 1992 (tên gọi khác: L Trọc); chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Hữu Anh C; sửa một phần quyết định của bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2022/HSST ngày 27 tháng 6 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về phần hình phạt như sau:

Tuyên bố các bị cáo Phạm Hữu Anh C, Nguyễn Thành L(L Trọc) phạm tội “Gây rối trật tự công cộng”.

2.1- Áp dụng điểm b, e khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 58;

Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành L(tên gọi khác: L Trọc) mức hình phạt 30 (Ba mươi) tháng tù.

Thời hạn tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án. Được khấu trừ thời gian đã tạm giữ, tạm giam trước đó từ ngày 01/02/2021 đến ngày 01/7/2021.

2.2- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Hữu Anh C mức hình phạt 30 (Ba mươi) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo Phạm Hữu Anh C cho Ủy ban nhân dân phường Tân Thiện, thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Phạm Hữu Anh C cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì tòa án có thể buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù của Bản án này.

3- Bị cáo Nguyễn Thành L(tên gọi khác: L Trọc) phải chịu 200.000đ án phí phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo, không bị kháng nghị tiếp tục có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội gây rối trật tự công cộng số 817/2022/HS-PT

Số hiệu:817/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/10/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về