Bản án về tội cố ý gây thương tích số 23/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH A, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 23/2020/HS-ST NGÀY 03/07/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong ngày 03 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện C Thành A, tỉnh Hậu Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2020/TLST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2020/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 6 năm 2020 đối với bị cáo:

- Nguyễn Quốc T - sinh năm 1968; tên gọi khác: Không có; nơi sinh: Tại quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. Nơi cư trú: Số 147 khu vưc 2, phường A, quận B, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Không có; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Trần Thị T (đã chết); Bị cáo: Chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện tại đang tại ngoại, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn B - Văn phòng Luật sư N thuộc Đoàn luật sư tỉnh Hậu Giang. (Có mặt)

 - Bị hại: Nguyễn Minh C, sinh năm 1983. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Nguyễn Thị Mỹ H – sinh năm 1984. (có mặt) Cùng địa chỉ: Số 148 khu vực 2, phường A, quận B, thành phố Cần Thơ.

- Người bảo vệ, quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại: Luật sư Phạm Văn L – Văn phòng luật sư Phạm Văn L thuộc Đoàn luật sư thành phố Cần Thơ. (có mặt)

 - Người làm chứng: Lưu Văn Mỹ P; trú tại: Ấp 1, xã 2, huyện 3, tỉnh Hậu Giang. (vắng mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 20/9/2019, Nguyễn Quốc T điều khiển xe mô tô biển số kiểm soát 68M6-xxxx đến nhà của Nguyễn Minh C tại số 148 khu vực 2, phường A, quận B, thành phố Cần Thơ để tìm cha của anh C giải quyết mâu thuẫn tranh chấp đất đai của hai gia đình. Đến nơi Nguyễn Quốc T gặp Nguyễn Minh C thì hai bên xảy ra mâu thuẫn cự cãi với nhau. Trong lúc xảy ra cự cãi có khách kêu 02 tô bún nên anh C bưng bún qua Bệnh viện số 10 thuộc ấp P T, xã TP, huyện CTA, tỉnh Hậu Giang. Lúc này, T tức giận mở cốp xe mô tô lấy con dao thái lan (cán màu đen, dài khoảng 20 cm, lưỡi sắc bén) núp sau xe taxi đợi anh C. Khi anh C giao bún cho khách xong thì quay ra đến cửa Bệnh viện đa khoa số 10 thì T cầm dao đâm anh C 01 nhát nhưng không trúng (do anh C lấy giá mang bún đỡ) T tiếp tục đâm anh C thì trúng vào phía trước vai phải của anh C làm chảy máu, anh C chạy vào Bệnh viện đa khoa số 10 băng bó vết thương. Sau khi gây án xong T điều khiển xe mô tô chạy về hướng Cần Thơ và ném bỏ con dao dọc đường. Sau khi bị T gây thương tích gia đình anh C đã đến Công an xã TP trình báo sự việc.

Đến ngày 21/9/2019 Nguyễn Quốc T đến Đồn công an khu Công nghiệp TP đầu thú về hành vi phạm tội của mình.

Đối với anh C do vết thương quá nặng nên Bệnh viện số 10 đã chuyển anh C đến bệnh viện đa khoa Trung ương Cần Thơ điều trị từ ngày 20/9/2019 đến ngày 28/8/2019 thì xuất viện.

Tại giấy chứng nhận thương tích số 254/CN ngày 15/10/2019 của bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ thể hiện: Tình trạng thương tích lúc vào viện: Vết thương vùng nách trước phải khoảng 03cm, không duỗi được cổ tay phải và ngón I tay phải.

Tại Kết luận giám định số 155/19/TgT ngày 14/11/2019 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế Hậu Giang giám định và kết luận: Tỷ lệ thương tích gây tổn hại sức khỏe hiện tại của Nguyễn Minh C là 54%, vết thương do vật sắc bén gây nên.

Tại kết luận giám định pháp y tâm thần theo trưng cầu số 07/2020 ngày 14/01/2020 của Trung tâm pháp y tâm thần Khu vực Tây Nam Bộ đã giám định và kết luận tình trạng tâm thần của Nguyễn Quốc T như sau:

Về y học: Tại thời điểm phạm tội và hiện tại: Đương sự có bệnh lý tâm thần: Rối loạn nhân cách cảm xúc không ổn định.(F603 – ICD10) Về năng lực: Tại thời điểm phạm tội và hiện tại: Đương sự hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi do bệnh lý tâm thần.

Tại Công văn số 07.0/PYTT ngày 14/01/2020 của Trung tâm pháp y tâm thần Khu vực Tây Nam Bộ đã xác định năng lực chịu trách nhiệm hình sự của Nguyễn Quốc T: Tại thời điểm phạm tội và hiện tại: Đương sự có năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

Tại Cáo trạng số 21/CT-VKS-HCTA ngày 29/4/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C Thành A, tỉnh Hậu Giang truy tố bị cáo Nguyễn Quốc T về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, bị cáo đồng ý bồi thường tiền thuốc, chi phí điều trị cho bị hại số tiền 19.000.000đồng, chi phí đi lại điều trị bệnh cho bị hại 15.000.000đồng, tiền mất thu nhập cho bị hại 45.000.000đồng, các khoản tiền còn lại bị cáo yêu cầu Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định pháp luật. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt và có lời xin lỗi đối với bị hại.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C Thành A vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Quốc T về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 06 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 cái áo thun ngắn tay, màu nâu, phía sau áo có bông hoa vàng và 01 cái quần sọt loại vải kaki, màu xám có 06 túi.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị áp dụng Điều 484, Điều 585, Điều 590 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 79.000.000đồng (Trong đó tiền thuốc, chi phí điều trị: 19.000.000đồng, tiền mất thu nhập số tiền 45.000.000đồng, chi phí đi lại để điều trị bệnh số tiền 15.000.000đồng); chấp nhận bồi thường tổn thất tinh thần số tiền 44.700.000đồng; không chấp nhận chi phí ăn uống, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút 30.000.000 đồng.

Vậy tổng số tiền bị cáo bồi thường cho bị hại là 123.700.000đồng, khấu trừ số tiền 20.000.000 đồng bị cáo nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C Thành A, tỉnh Hậu Giang, bị cáo còn phải bồi thường thêm cho bị hại số tiền 103.700.000đồng.

Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Nguyễn Thị Mỹ H yêu cầu bồi thường tổng số tiền 30.000.000 đồng (bao gồm: Tiền ăn nuôi bệnh 15.000.000 đồng, tiền mất thu nhập: 15.000.000đồng). Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận tiền mất thu nhập từ ngày 20/9/2019 đến 28/9/2019 là 09 ngày, mỗi ngày 100.000 đồng tương đương số tiền 900.000đồng.

Quan điểm của người bào chữa chỉ định cho bị cáo cho rằng: Qua tranh tụng tại phiên tòa hôm nay, luật sư bào chữa thống nhất với tội danh, khung hình phạt cũng như tình tiết gỉam nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo của đại diện Viện kiểm sát đề nghị, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có bệnh lý tâm thần. Về trách nhiệm dân sự ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 79.000.000 đồng, các khoản còn lại yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Quan điểm Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại cho rằng: Qua tranh tụng tại phiên tòa hôm nay, Luật sư thống nhất với tội danh, điều luật mà đại diện Viện kiểm sát truy tố. Tuy nhiên, luật sư cho rằng việc hạ khung hình phạt từ 02 năm 6 tháng - 03 năm 06 tháng là quá thấp, chưa tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, chỉ vì những mâu thuẫn nhỏ nhặt mà bị cáo đã dùng hung khí nguy hiểm đâm anh C, tỉ lệ thương tích lên đến 54%. Đồng thời, luật sư không đồng ý áp dụng các tình tiết giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo như: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo có thành khẩn khai báo nhưng chưa thật sự ăn năn hối cải vì bị cáo không bồi thường các khoản tiền mà bị hại yêu cầu và luật quy định là phải bồi thường, điều này cho thấy bị cáo chưa ăn năn hối cải, tình tiết thành khẩn khai báo phải đi liền với nhau ăn năn hối cải. Vì vậy, bị cáo không được hưởng tình tiết này; Về tình tiết bồi thường thiệt hại áp dụng cho bị cáo cũng chưa trọn vẹn vì không phải bị cáo bồi thường cho bị hại mà là gia đình bị cáo bồi thường; Về chi phí ăn uống, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút đề nghị Hồi đồng xét xử chấp nhận vì khi bị thương tích bị hại cần ăn uống để phục hồi sức khỏe đó là điều cần thiết; Về yêu cầu tổn thất tinh thần theo quy định pháp luật thì mức tối đa bồi thường là 50 lần mức lương cơ sở, bị hại bị tổn hại sức khỏe 54% và chỉ yêu cầu bồi thường 30 tháng lương cơ sở là hợp lý. Từ những phân tích nêu trên, đề nghị Hồi đồng xét xử tăng mức hình phạt hình sự đối với bị cáo từ 03 năm 06 tháng – 04 năm, ghi nhận sự tự nguyện bị cáo bồi thường cho bị hại 79.000.000đồng. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận số tiền bồi thường còn lại cho bị hại là 74.700.000đồng.

Tại phiên tòa, bị hại Nguyễn Minh C đồng ý bồi thường tiền mất thu nhập là 45.000.000đồng và đề nghị Hội đồng xét xử bắt tạm giam tại tòa đối với bị cáo.

Tại phiên tòa người có quyền lợi,nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Mỹ H: Bà H vẫn giữ nguyên yêu cầu bồi thường như đơn yêu cầu bồi thường ngày 18/6/2020.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét về thủ tục tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C Thành A; Viện kiểm sát nhân dân huyện C Thành A; Điều tra viên; kiểm sát viên đã thực hiện theo quy định pháp luật về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hay khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[1.2] Đối với người làm chứng Lưu Văn Mỹ P vắng mặt tại phiên Tòa, xét thấy lời khai của người làm chứng đã thể hiện rõ trong hồ sơ nên việc vắng mặt của người làm chứng không ảnh hưởng đến quá trình xét xử nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự xét xử vắng mặt người làm chứng.

[2] Về nội dung vụ án: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Quốc T thừa nhận hành vi bị cáo thực hiện. Đối chiếu lời thừa nhận của bị cáo, bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án là phù hợp, chứng minh được như sau: Vào khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 20/9/2019 tại ấp Phú Thạnh, xã Tân Phú Thạnh, huyện C Thành A, tỉnh Hậu Giang do mâu thuẫn về đất đai nên Nguyễn Quốc T đã dùng dao sắc bén đâm Nguyễn Minh C gây thương tích với tỷ lệ tổn thương 54%, vết thương do vật sắc bén gây nên. Tại thời điểm phạm tội bị cáo bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi do bệnh lý tâm thần nên bị cáo đã gây thương tích cho anh C. Do đó, đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội “ Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự như luận tội của Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người đúng tội.

[3] Về tính chất của vụ án: Bị cáo phạm tội có tính chất rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm sức khỏe của người khác một cách trái pháp luật, được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Mặc dù, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, bị cáo nhận thức được dùng dao sắc bén đâm vào cơ thể người khác sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người khác nhưng bị cáo vẫn thực hiện cụ thể: Bị cáo đâm anh C lần đầu không trúng, bị cáo vẫn tiếp tục đâm anh C đến khi thấy anh C chảy máu bị cáo mới bỏ đi, đây là lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo thể hiện tính xem thường tính mạng người khác, xem thường tính nghiêm minh, kỹ cương của pháp luật. Do đó, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo sau này trở thành người tốt và răn đe phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cũng cần xem xét: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, bị cáo đầu thú, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo được quy định tại điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Từ những căn cứ nêu trên xét thấy, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự và có 02 tình tiết khác theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nhằm thể hiện tính khoan hồng của pháp luật nên cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật quy định nhưng trong khung hình phạt liền kề đối với bị cáo là phù hợp, có căn cứ.

[4] Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại:

[4.1] Trong quá trình điều tra, truy tố bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền 169.009.738đồng. Tuy nhiên, ngày 18/6/2020 bị hại thay đổi yêu cầu bồi thường và tại phiên tòa bị hại yêu cầu bồi thường các khoản sau: tiền thuốc, chi phí điều trị: 19.000.000đồng; tiền mất thu nhập 105.000.000đồng; chi phí ăn uống, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút trong thời gian điều trị 150 ngàysố tiền 30.000.000đồng; tiền xe vận chuyển đi khám bệnh:

15.000.000đồng; tổn thất tinh thần với số tiền 44.700.000 đồng. Tổng số tiền 213.700.000đồng.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến sức khỏe của người bị hại nên người bị hại yêu cầu bồi thường thiệt hại là có căn cứ nhưng cần xem xét các chi phí hợp lý theo quy định tại Điều 590 Bộ luật dân sự như sau:

Đối với tiền thuốc, chi phí khám chữa bệnh số tiền 19.000.000đồng; chi phí đi lại để điều trị bệnh số tiền 15.000.000đồng và 45.000.000đồng tiền mất thu nhập (Tổng số tiền 79.000.000đồng). Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đồng ý bồi thường cho bị hại số tiền 79.000.000 đồng. Xét thấy đây là ý chí tự nguyện của bị cáo và bị hại nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về chi phí ăn uống, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất của bị hại trong thời gian điều trị 150 ngày tương đương số tiền 30.000.000đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, thực tế việc ăn uống của người bị hại trong thời gian điều trị bệnh có phần cao so với người bình thường ăn uống tại gia đình. Tuy nhiên, khi con người không bị thương tích, họ vẫn phải ăn uống để sinh sống và duy trì sức khỏe nên đối với yêu cầu bồi thường khoản tiền nêu trên không chấp nhận.

Đối với yêu cầu bồi thường về tổn thất tinh thần có mức tối đa là 50 lần mức lương cơ sở, xét thấy tỷ lệ thương tích của bị hại 54% nên chấp nhận ở mức 30 tháng, tương đương số tiền 44.700.000 đồng.

Như vậy, bị cáo phải bồi thường cho bị hại tổng số tiền 123.700.000đồng, khấu trừ số tiền 20.000.000đồng bị cáo đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện C Thành A, tỉnh Hậu Giang. Nay bị cáo còn phải bồi thường thêm cho bị hại số tiền 103.700.000đồng.

Tại phiên tòa, bị hại Nguyễn Minh C yêu cầu bắt tạm giam bị cáo tại phiên tòa là không có căn cứ. Bởi lẽ, theo quy định tại khỏan 2 Điều 329 Bộ luật hình sự “Trường hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị xử phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam để chấp hành án hình phạt khi bản án đã có hiệu lực pháp luật...”.

[4.2] Trong quá trình điều tra, truy tố người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền mất thu nhập là 15.000.000đồng. Việc bà Nguyễn Thị Mỹ Hồng là người trực tiếp nuôi bệnh người bị hại từ ngày 20/9/2019 đến 28/9/2019 là 09 ngày nằm viện là thực tế, việc bà Hồng yêu cầu bồi thường tiền mất thu nhập trong 150 ngày là không có căn cứ để chấp nhận chỉ chấp nhận 09 ngày. Đồng thời, bà Hồng cho rằng thu nhập của bà 100.000 đồng/ngày do bà bán bún là phù hợp nên chấp nhận. Vậy tổng số tiền 100.000 đồng x 09 ngày = 900.000đồng là hợp lý.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 cái áo thun ngắn tay, màu nâu, phía sau áo có bông hoa vàng và 01 cái quần sọt loại vải kaki, màu xám có 06 túi.

[6] Tại phiên tòa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại cho rằng việc Viện kiểm sát hạ khung hình phạt từ 02 năm 06 tháng - 03 năm 06 tháng là quá thấp so với tỉ lệ thương tích của bị hại, tuy nhiên việc hạ khung nêu trên vẫn tuân thủ quy định pháp luật. Về các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự còn việc bị cáo có thiện trí bồi thường tiền cho bị hại hay không đó là trách nhiệm dân sự, không có ảnh hưởng đến việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa bị cáo tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 79.000.000đồng nên việc áp dụng tình tiết bồi thường thiệt hại là phù hợp; Đối với chi phí ăn uống, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút như đã phân tích ở trên không chấp nhận; Đối với đề nghị của vị Luật sư yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần bằng 30 tháng lương cơ sở và ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo bồi thường thiệt hại cho bị hại số tiền 79.000.000đồng là có căn cứ chấp nhận.

[7] Từ những phân tích nêu trên xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, luật sư bào chữa là có căn cứ chấp nhận.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, q, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017; Điều 293; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

1. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Quốc T 03 (ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 590 Bộ luật dân sự. Bị cáo Nguyễn Quốc T có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Nguyễn Minh C số tiền 103.700.000đồng (Bằng chữ: Một trăm lẻ ba triệu bảy trăm nghìn đồng).

Buộc bị cáo bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Nguyễn Thị Mỹ Hồng số tiền 900.000đồng (Bằng chữ: Chín trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì phải chịu lãi suất do chậm thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 357 Bộ luật dân sự 2015.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 cái áo thun ngắn tay, màu nâu, phía sau áo có bông hoa vàng và 01 cái quần sọt loại vải kaki, màu xám có 06 túi.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội; Buộc bị cáo Nguyễn Quốc T phải nộp 200.000đồng (Bằng chữ: Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 5.230.000đồng (Bằng chữ: Năm triệu hai trăm ba mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

5. Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

6. Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần liên quan đến mình trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội cố ý gây thương tích số 23/2020/HS-ST

Số hiệu:23/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành A - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về