TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯƠNG SƠN, TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 42/2023/HS-ST NGÀY 08/08/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 08 tháng 8 năm 2023 tại Hội trường Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 35/2023/TLST- HS ngày 10/7/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2023/QĐXXST- HS ngày 26/7/2023, đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Công L (tên gọi khác: Không); sinh ngày 19/5/1965; nơi sinh: Thị trấn P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Tổ dân phố I, thị trấn P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn M (đã chết) và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1942; có vợ Nguyễn Thị Việt H (đã ly hôn) và 02 đứa con: Lớn 17 tuổi, nhỏ 12 tuổi; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 19/6/2003, bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh hà Tĩnh xử phạt 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 248 Bộ luật Hình sự năm 1999 tại Bản án số 13/2003/HSST; ngày 18/9/2012, bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 07 năm tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, theo quy định tại khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 tại Bản án số 30/2012/HSST chấp hành xong hình phạt ra trại ngày 30/7/2017; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 16/6/2023 cho đến nay; có mặt.
- Bị hại: Ông Lương Văn L1, sinh năm 1966; địa chỉ: Tổ dân phố I, thị trấn P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn H, xã S, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.
+ Anh Võ Việt D, sinh năm 1982; địa chỉ: Tổ dân phố I, thị trấn P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.
- Người làm chứng:
+ Anh Hồ Hữu Đ, sinh năm 1977; địa chỉ: Tổ dân phố I, thị trấn P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.
+ Anh Võ Văn T1, sinh năm 1953; địa chỉ: Tổ dân phố I, thị trấn P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 04/6/2023, Nguyễn Công L, sinh năm 1965, trú tại tổ dân phố I, thị trấn P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh cho rằng ông Lương Văn L1, sinh năm 1966, trú cùng tổ dân phố đã đến nhà chửi bới, xúc phạm nên mang theo 01 con dao (thường gọi là dao T2) và điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 38H1 -146.B (xe thuộc quyền sở hữu của chị Nguyễn Thị H1, sinh năm 1973, trú tại thôn H, xã S, huyện H là em gái bị cáo) đến nhà ông L1. Tại đây, thấy ông L1 đi từ trong nhà ra đến thềm nhà, Nguyễn Công L chửi bới và tiến lại gần, tay phải cầm dao để ngang hông, hướng mũi dao về phía ông L1 đe dọa. Sau đó Nguyễn Công L dùng dao tấn công ông L1 thì bị ông L1 đánh cùi chỏ vào mặt khiến Nguyễn Công L chảy máu mũi. Quá trình giằng co, Nguyễn Công L dùng dao cứa một nhát trúng vào vùng tai phải và vùng vai phải của ông L1, gây thương tích. Sự việc được anh Hồ Hữu Đ, sinh năm 1977 và anh Võ Việt D, sinh năm 1982 trú cùng tổ dân phố can ngăn nên cả hai mới dừng lại, khi anh D vào can ngăn thì Nguyễn Công L có dùng tay đánh về phía anh D 02 cái, nhưng không gây thương tích gì và sau đó Nguyễn Công L điều khiển xe mô tô đi về nhà.
Đến ngày 07/6/2023, ông Lương Văn L1 có đơn đề nghị giám định tỷ lệ tổn thương cơ thể, đồng thời yêu cầu khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Nguyễn Công L về hành vi cố ý gây thương tích để điều tra xử lý theo đúng quy định.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 139/KLTTCT – TTPY&GĐYK ngày 12/6/2023 của Trung tâm Pháp y và Giám định y khoa tỉnh H, kết luận:
- Vùng vai bên phải sát nếp lằn cổ vết thương kích thước nhỏ (02cm x 0,2cm).
Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%.
- Mép vành sau tai phải vết thương kích thước nhỏ (1,5cm x 0,2cm). Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%.
Căn cứ Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y quy định về tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể trong giám định Pháp y, giám định Pháp y tâm thần xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể của Lương Văn L1 tại thời điểm giám định là 2%, áp dụng phương pháp cộng tại Thông tư. Thương tích do vật sắc tác động trực tiếp gây nên.
* Vật chứng thu giữ:
- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Jupiter, màu xanh trắng, biển kiểm soát 38H1 - 146.B, xe đã qua sử dụng, đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp;
- 01 con dao bằng kim loại, dài 33,5cm, lưỡi dao một bề sắc, mũi dao nhọn, dao đã qua sử dụng. Đã được Cơ quan điều tra chuyển cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện H để xử lý theo quy định.
* Về trách nhiệm dân sự: Bi hại ông Lương Văn L1 không yêu cầu bồi thường về mặt dân sự.
Tại Cáo trạng số 42/CT-VKS-HS ngày 08/7/2023 của Viện trưởng VKSND huyện H truy tố bị cáo Nguyễn Công L về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa:
Bị cáo Nguyễn Công L khai nhận hành vi của mình như nội dung trên. Bị cáo đồng ý với Cáo trạng truy tố và không có ý kiến gì tranh luận. Trong đơn xin xét xử vắng mặt, bị hại ông Lương Văn L1 vẫn giữ nguyên yêu cầu xử lý bị cáo về hình sự, về trách nhiệm dân sự ông Lương Văn L1 không có yêu cầu gì, đồng thời đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Lời nói sau cùng bị cáo rất ân hận về hành vi phạm tội của mình đã gây ra, mong được Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố cáo Nguyễn Công L về tội “Cố ý gây thương tích”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 09 đến 12 tháng tù; đồng thời đề nghị tịch thu, tiêu hủy vật chứng của vụ án hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo tự nguyện khai nhận hành vi phạm tội của mình. Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án được xem xét công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Khoảng 23 giờ 30 phút, ngày 04/6/2023, Nguyễn Công L đã mang theo 01 con dao để đến nhà ông Lương Văn L1 để chửi bới, đe dạo và dùng dao cứa 01 nhát trúng vào tai và vai bên phải của ông Lương Văn L1, gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể 02%.
Giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn gì, nhưng bị cáo đã vô cớ đến nhà của bị hại, gây thương tích cho bị hại là phạm tội thuộc trường hợp “Có tính chất côn đồ” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự; bị cáo dùng dao đánh gây thương tích cho bị hại là thuộc trường hợp “Dùng hung khí nguy hiểm” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự; hậu quả gây tổn thương cơ thể cho bị hại là 02%. Vì vậy, Cáo trạng của Viện trưởng VKSND huyện H truy tố bị cáo Nguyễn Công L về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, do đó cần phải xử lý nghiêm để đảm bảo tính giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Sau khi phạm tội thì bị cáo đã thành khẩn khai báo, trong đơn xin xét xử vắng mặt bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Thành khẩn khai báo” quy định tại tiết thứ nhất điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Bị cáo là người có nhân nhân xấu khi từng bị xét xử và kết án 02 lần nhưng không lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân, trở thành con người tốt, có ích cho gia đình và xã hội. Ngược lại bị cáo lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội; cũng như như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo, Hội đồng xét thấy cần xử phạt tù và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử miễn xét.
[8] Xử lý vật chứng: Đối với 01 con dao là công cụ bị cáo dùng để phạm tội, nay không còn giá trị sử dụng, nên cần tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, số loại Jupiter, màu xanh trắng, biển kiểm soát 38H1 - 146.B đã được Cơ quan điều tra trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật và không có ai khiếu nại nên Hội đồng xét xử miễn xét.
[9] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị về điều luật, tội danh, mức hình phạt, xử lý vật chứng là có căn cứ, phù hợp nên được chấp nhận.
[10] Về các nội dung khác: Đối với hành vi của ông Lương Văn L1 dùng cùi chỏ đánh vào vùng mặt làm chảy máu mũi Nguyễn Công L khi bị L dùng dao lao vào tấn công là hành vi phòng vệ chính đáng nên không xem xét xử lý.
Bị cáo có dùng tay đánh vào người anh Võ Việt D 02 cái sau khi anh D vào can ngăn, nhưng anh D không bị thương và anh D cũng không có yêu cầu gì về mặt hình sự, dân sự nên miễn xét.
Đối với chị Nguyễn Thị H1 là người đã cho bị cáo mượn chiếc xe mô tô biển kiểm soát 38H1 - 146.B, sau đó bị cáo đã dùng chiếc xe mô tô này làm phương tiện di chuyển đến nhà bị hại. Nhưng xét thấy khi cho mượn chị H1 hoàn toàn không biết bị cáo sử dụng làm phương tiện đi phạm tội, do đó không có căn cứ để xem xét vai trò, trách nhiệm của chị H2 liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Công L 09 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/6/2023.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 01 con dao (loại dao Thái), dài 33,5cm, lưỡi dao gồm một bề sắc, mũi nhọn (đã qua sử dụng) (Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/7/2023 giữa Cơ quan Công an huyện H và Chi cục Thi hành án dân sự huyện H).
4. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 42/2023/HS-ST
Số hiệu: | 42/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hương Sơn - Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về