TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 45/2023/HS-PT NGÀY 23/05/2023 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 23 tháng 5 năm 2023, tại phòng xét xử án hình sự Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, mở phiên toà xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 28/2023/TLPT – HS ngày 17 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Cao Thị D, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2023/HS-ST ngày 10 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Bị cáo có kháng cáo: Cao Thị D (tên gọi khác: không); sinh ngày 26 tháng 5 năm 1962 tại thị xã B, tỉnh Quảng Bình; nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn Ph, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn:
5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Cao Xuân L (chết) và bà Phạm Thị T (chết); chồng: Nguyễn Hoa L, sinh năm 1960; con: 04 đứa lớn nhất sinh năm 1983, nhỏ nhất sinh năm 1990; tiền án: Không; tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.
Trong vụ án này còn có người có quyền lợi liên quan vụ án, gồm: Ông Nguyễn Đình Tr, bà Nguyễn Thị Thanh Th, ông Nguyễn Hoa L, bà Võ Thị Nam V, ông Nguyễn Thanh T, bà Phan Thị Bích Ph, bà Đào Thị H, ông Trịnh Ngọc H, ông Phan Văn L và bà Châu Thị H; người làm chứng bà Nguyễn Thị H, bà Nguyễn Thị H1 và bà Nguyễn Thị T nhưng kháng cáo của bị cáo D không liên quan đến những người này nên không không triệu tập đến phiên toà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà thì vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 9 giờ ngày 22/4/2022, Cục A tỉnh Quảng Bình phối hợp với các cơ quan, ban, ngành có liên quan để xác định tài sản thi hành án. Lúc làm việc, người phải thi hành án 1 Cao Thị D và các con gái của bà D có những lời lẽ xúc phạm, lăng mạ, chống đối, không phối hợp. Cục A tỉnh Quảng Bình và các cơ quan phối hợp đã tiến hành giải thích, công bố các văn bản tố tụng đúng theo quy định của pháp luật về việc thi hành án dân sự đối với thửa đất sô 674, tờ bản đồ số 7 thôn Ph, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nhưng bà Cao Thị D không chấp hành và dùng chất lỏng bẩn (nước phân lỏng hỗn hợp) tạt vào các thành viên đang làm việc, cụ thể chất bẩn bắn vào người quần, áo ông Nguyễn Thanh T – Công chức địa chính xã Q, bà Phan Thị Bích Ph – cán bộ Phòng Tài nguyên, Môi trường huyện Q và làm hư hỏng một số tài liệu. Do bà Cao Thị D chống đối quyết liệt nên Đoàn liên ngành không thực hiện được công vụ.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2023/HS-ST ngày 10 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Quảng Trạch đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Cao Thị D phạm tội “Chống người thi hành công vụ”. Áp dụng khoản 1 Điều 330;
điểm i khoản 1 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015; điểm a khoản 2 điều 106; khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về án phí, lệ phí; xử phạt bị cáo Cao Thị D 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.
Ngoài ra bản án còn tuyên nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm, xử lý vật chứng và quyền kháng cáo.
Ngày 13 tháng 3 năm 2023, Toà án nhân dân huyện Quảng Trạch nhận được đơn của bị cáo Cao Thị D kháng cáo với nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 06 tháng tù là quá nặng, bị cáo nhận thấy được hành vi phạm tội của mình nên đề nghị cấp phúc thẩm chuyển sang loại hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Cao Thị D thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã xét xử, bị cáo xin chuyển hình phạt nhẹ hơn để có điều kiện ở nhà chữa bệnh.
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phúc thẩm đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm s, i khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự năm 2015; chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Cao Thị D; giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm nhưng chuyển cho bị cáo được hưỡng án treo thời gian thử thách 12 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm; bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Ngày 10 tháng 3 năm 2023, Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch xét xử sơ thẩm và ban hành Bản án số 08/2023/HS – ST. Ngày 13 tháng 03 năm 2023, Toà án nhân dân huyện Quảng Trạch nhận được đơn của bị cáo Cao Thị D kháng cáo xin chuyển sang loại hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền. Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định và đúng quy định tại Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự nên chấp nhận để xét xử phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Cao Thị D thừa nhận, khoảng 9 giờ ngày 22/4/2022, cán bộ của Cục A tỉnh Quảng Bình phối hợp các cơ quan, ban, ngành có liên quan đến làm việc tại nhà bị cáo để xác định tài sản thi hành án dân sự theo quy định pháp luật. Do bức xúc với người được thi hành án thửa đất sô 674, tờ bản đồ số 7 thôn Ph, xã Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình nên bị cáo đã có những lời lẽ xúc phạm, lăng mạ và có hành vi chống đối, không phối hợp khi được mời làm việc. Bị cáo đã dùng chất lỏng bẩn (nước phân lỏng hỗn hợp) tạt vào các thành viên đang làm việc, làm 02 người bị bị bẩn áo quần, tài liệu và không thực hiện được công việc.
[3] Lời khai nhận của bị cáo D tại phiên toà phúc thẩm phù hợp với lời khai của những người liên quan vụ án, người làm chứng trong vụ án và các chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, việc Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Cao Thị D phạm tội “Chống người thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội.
[4] Xét kháng cáo xin chuyển laoij hình phạt khác của bị cáo thấy: Tại phiên toà sơ thẩm bị cáo không nhận thức được hành vi phạm tội của mình, không thành khẩn khai báo, do đó Toà án cấp sơ thẩm áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự năm 2015, để xử phạt bị cáo 06 tháng tù là đúng quy định. Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải với hành vi phạm tội của mình. Mặt khác, bị cáo đã tự nguyện thi hành án đối với bản án bị cáo phải thi hành án dân sự và được Cục A tỉnh Quảng Bình ban hành Công văn số 670/CTHADS – NV ngày 16/5/2023 đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; hơn nữa bị cáo đã cao tuổi bị mắc nhiều bệnh lý. Vì vậy cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo và áp dụng thêm điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật hình năm 2015 để chuyển hình phạt tù của bị cáo sang cho hưỡng án treo, thời gian thửa thách gấp đôi.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[6] Về án phí: Bị cáo Cao Thị D kháng cáo được cấp phúc thẩm chấp nhận không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 333, điểm b khoản 1 Điều 355, điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Áp dụng điểm s, i khoản 1 Điều 51, Điều 65, khoản 1 Điều 330 của Bộ luật hình sự năm 2015; điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Toà án; xử:
1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Cao Thị D đối với Bản án sơ thẩm số 08/2023/HS – ST ngày 10/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, để sửa hình phạt bản án sơ thẩm.
2. Xử phạt bị cáo Cao Thị D 06 (sáu) tháng tù cho hưỡng án treo, thời gian thửa thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm 23/5/2023; về tội “Chống người thi hành công vụ”.
3. Giao bị cáo Cao Thị D cho Uỷ ban nhân dân xã Quảng L, huyện Q giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo D có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã Q để giám sát, giáo dục bị cáo. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Toà án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Bị cáo bị phạt tù cho hưởng án treo phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 87 và Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bị cáo Cao Thị D không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 23/5/2023.
Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 45/2023/HS-PT
Số hiệu: | 45/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về