TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ NAM
BẢN ÁN 43/2023/HS-PT NGÀY 05/09/2023 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 05 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 65/2023/TLPT-HS ngày 02 tháng 8 năm 2023 do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2023/HS-ST ngày 29 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam.
Bị cáo không kháng cáo nhưng bị kháng nghị: Trần Ngọc T, sinh năm 1990; nơi cư trú: Thôn Q, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và bà Nguyễn Thị N; có vợ Hoàng Thị T và 02 con, lớn sinh năm 2017, nhỏ nhất sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 27/4/2023, chuyển tạm giam từ ngày 06/5/2023; hiện đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Nam (có mặt).
- NLQ, sinh năm 1992; nơi cư trú: Thôn Q, xã Y, huyện Y, tỉnh Nam Định (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Buổi tối ngày 26/4/2023, Tổ công tác thuộc Đội C sát giao thông trật tự Công an huyện Bình Lục có 05 cán bộ gồm: Đại úy Nguyễn Đức C, Đại úy Nguyễn Trung N, Trung úy Dương Minh H, Thượng úy Trần Xuân H và Đại úy Nguyễn Xuân K lập chốt ở Km 8+200 đường ĐT496B thuộc địa phận thôn Cửa Câu Trại, xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra nồng độ cồn của người tham gia giao thông theo Kế hoạch số 410/KH-CAH ngày 26/3/2023 của Công an huyện Bình Lục về việc tuần tra, kiểm soát, chỉ huy điều khiển giao thông và đảm bảo trật tự an toàn giao thông trên địa bàn huyện Bình Lục từ ngày 01/4/2023 đến 30/4/2023.
Khoảng 21 giờ cùng ngày, Đại úy Nguyễn Trung N dùng đèn pin và gậy điều khiển giao thông ra hiệu lệnh yêu cầu xe ô tô biển kiểm soát (sau đây viết tắt là BKS) 18A-327.xx do bị cáo Trần Ngọc T đang điều khiển theo hướng Cầu Họ - Lý Nhân, cách chốt kiểm tra khoảng 15m dừng xe ô tô để kiểm tra nồng độ cồn nhưng T không chấp hành mà điều khiển xe ô tô lùi lại, đánh lái sang bên trái nhằm điều khiển xe quay đầu bỏ chạy. Thời điểm này, Đại úy N đang đứng tại vị trí khu vực ngay phía trước đầu xe bên trái của xe ô tô BKS 18A-327.xx liên tục ra hiệu lệnh dừng xe, yêu cầu lái xe xuống xe để kiểm tra nhưng T không dừng, xuống xe mà tiếp tục điều khiển xe ô tô vòng lại. Do xe ô tô dài nên T phải điều khiển xe mở rộng cung đường, vị trí Đại úy N đứng sát đầu xe, phía sau là nhà dân không có chỗ để lùi. Bị bất ngờ và để tránh va chạm nên Đại úy N buộc phải bám rồi đu cả người lên nắp capo của xe ô tô, đồng thời tiếp tục yêu cầu T dừng xe để kiểm tra. Tuy nhiên, T vẫn không chấp hành mà tiếp tục điều khiển xe ô tô quay đầu bỏ chạy. Mặc dù Đại úy N vẫn nằm trên nắp capo và liên tục ra yêu cầu dừng xe nhưng T không dừng xe mà điều khiển xe ô tô đi thêm khoảng 400-500m thì mới giảm tốc độ để cho Đại úy N nhảy xuống. Sau khi Đại úy N nhảy xuống thì T tiếp tục điều khiển xe ô tô bỏ chạy, Tổ công tác Công an huyện Bình Lục đã truy đuổi theo xe ô tô của T với mục đích yêu cầu T dừng lại để làm việc nhưng T cố tình không chấp hành mà tiếp tục điều khiển xe ô tô ra Quốc lộ 21 đi về phía tỉnh Nam Định.
Ngay sau khi tiếp nhận tin báo của Tổ công tác thuộc Công an huyện Bình Lục, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Lục đã phối hợp với cơ quan chức năng tổ chức khám nghiệm hiện trường, xem xét dấu vết trên thân thể, thu thập lấy lời khai của bị hại, người làm chứng và tổ chức truy bắt Trần Ngọc T. Ngày 27/4/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Lục đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Trần Ngọc T.
Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Lục đã thu giữ, tạm giữ:
- Tạm giữ của Trần Ngọc T: 01 xe ô tô BKS 18A-327.xx, nhãn hiệu TOYOTA, loại xe Inova, màu sơn ghi bạc, số khung RL4XW43G379217451, số máy 1TR6444976. 01 chứng nhận đăng ký xe ô tô số 180004xx biển số đăng ký 18A-327.xx; 01 giấy phép lái xe hạng C số 3101490077xx; 01 giấy chứng nhận kiểm định ATKT và BVMT phương tiện giao thông cơ giới đường bộ số 2723001 biển số đăng ký 18A-327.xx; 01 giấy chứng nhận bảo hiểm bắt buộc TNDS của chủ xe ô tô số OT220082263 đều mang tên Trần Ngọc T.
- Đồ vật do Đại úy Nguyễn Trung N giao nộp gồm: 01 chiếc áo C sát giao thông xuân hè màu vàng có kích thước (79x54)cm; 01 chiếc quần C sát giao thông màu vàng có chiều dài 91cm, chỗ rộng nhất 55cm, gấu 02 ống quần đều rộng 20cm.
- Trích xuất 02 tệp video clip vào trong 01 chiếc USB kim loại, màu bạc, nhãn hiệu TOSHIBA, loại 4GB gồm: 01 tệp video trích xuất từ camera an ninh của quán Spa L, cơ sở tại thôn Duy Dương, xã Trung Lương, huyện Bình Lục thời gian từ 21 giờ 03 phút đến 21 giờ 04 phút ngày 26/4/2023 và 01 tệp video được trích xuất từ camera an ninh trong nhà bà Nguyễn Thị Minh - sinh năm 1962, trú tại thôn Cửa Câu Trại, xã Trung Lương, huyện Bình Lục thời gian từ 21 giờ 02 phút 05 giây đến 21 giờ 03 phút 22 giây ngày 26/4/2023.
Ngày 10/5/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Lục đã Trưng cầu giám định Trung tâm Pháp y tỉnh Hà Nam để xác định mức độ tổn hại sức khỏe của Đại úy Nguyễn Trung N do bị thương tích ngày 26/4/2023. Tại Bản kết luận giám định tổn thương trên cơ thể ngày 16/5/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Hà Nam kết luận: “Xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Đại úy Nguyễn Trung N tại thời điểm giám định là 01% (một phần trăm), thương tích do tác động với vật tày diện giới hạn gây nên”.
Ngày 11/5/2023, Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Lục đã trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Lục định giá đối với chiếc xe ô tô BKS 18A-327.xx. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 27/KL- HĐĐG ngày 18/5/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự huyện Bình Lục kết luận: “Trị giá của: 01 (một) chiếc xe ô tô BKS 18A-327.xx, nhãn hiệu TOYOTA, loại xe INNOVA-G, màu sơn: Ghi-bạc, số khung RL4XW43G379217451, số máy 1TR6444976, 08 chỗ ngồi, xe đã qua sử dụng là 150.000.000đ (Một trăm năm mươi triệu đồng)”.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2023/HS-ST ngày 29 tháng 6 năm 2023 của Tòa ánnhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam quyết định: Áp dụng khoản 1 Điều 330; các điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106; Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khoá 14. Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc T phạm tội “Chống người thi hành công vụ”, xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giữ (27/4/2023). Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung ngân sách nhà 01 (một) chiếc xe ô tô biển kiểm soát 18A- 327.xx, nhãn hiệu TOYOTA, loại xe INNOVA-G, màu sơn: Ghi-bạc, số khung RL4XW43G379217451, số máy 1TR6444976, 08 chỗ ngồi, xe đã qua sử dụng. Trả lại ông Nguyễn Trung N 01 chiếc áo, 01 chiếc quần C sát giao thông xuân hè màu vàng.Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý tài liệu tạm giữ, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 28 tháng 7 năm 2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam ban hành Quyết định số 1743/QĐ-VKS; kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2023/HS-ST ngày 29/6/2023 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam. Đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử phúc thẩm vụ án theo hướng sửa bản án hình sự sơ thẩm, tuyên tịch thu sung ngân sách Nhà nước ½ trị giá chiếc xe ô tô BKS 18A-327.xx và trả lại cho NLQ ½ trị giá còn lại của chiếc xe ô tô BKS 18A-327.xx là tài sản được hình thành từ nguồn tài sản chung vợ chồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam giữ nguyên nội dung kháng nghị.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 vàđiểm d khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam, sửa bản án sơ thẩm theo hướng tuyên tịch thu sung ngân sách Nhà nước ½ trị giá chiếc xe ô tô BKS 18A-327.xx và trả lại cho NLQ ½ giá trị còn lại của chiếc xe ô tô BKS 18A-327.xx.
Bị cáo và NLQ nhất trí với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam và không có ý kiến tranh luận.
Lời nói sau cùng của bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trả lại ½ trị giá chiếc xe ô tô BKS 18A-327.xx như quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về nội dung kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam trong thời hạn luật định, Quyết định kháng nghị thể hiện đầy đủ nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 336 của Bộ luật Tố tụng hình sự và hợp lệ cần được cấp phúc thẩm xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
[2] Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Ngọc T thừa nhận khi nhận được hiệu lệnh của Đại úy Nguyễn Trung N, bị cáo đã dừng xe ô tô biển kiểm soát 18A-327.xx do mình điều khiển. Tuy nhiên, khi được yêu cầu kiểm tra nồng độ cồn thì bị cáo không chấp hành. Sau đó bị cáo điều khiển quay đầu xe nhằm mục đích bỏ chạy đã làm Đại úy N phải đu bám trên nắp capo xe để tránh va chạm. Bị cáo tiếp tục điều khiển xe khoảng 400m đến 500m thì giảm tốc độ, Đại úy N nhảy xuống đường thì bị cáo tiếp tục điều khiển xe bỏ chạy. Hậu quả Đại úy N bị tổn thương cơ thể 01%. Cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 09 tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ” theo quy định tại khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự là đúng người đúng tội. Phần hình phạt chính không có kháng cáo, kháng nghị và có hiệu lực pháp luật nên cấp phúc thẩm không xem xét.
[3] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam, Hội đồng xét xử thấy: Cấp sơ thẩm đã xác định chiếc xe ô tô BKS 18A-327.xx là tài sản chung của vợ chồng bị cáo Trần Ngọc T và NLQ là đúng. Việc Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam kháng nghị cho rằng cấp sơ thẩm tuyên tịch thu sung ngân sách Nhà nước toàn bộ giá trị chiếc xe ô tô BKS 18A-327.xx là không chính xác, làm thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của NLQ, với lý do: Chiếc xe ô tô BKS 18A-327.xx mà vợ chồng bị cáo mua từ nguồn vốn là tài sản chung của vợ chồng để bị cáo T làm dịch vụ taxi chở khách kiếm thu nhập nuôi sống gia đình; khi bị cáo sử dụng chiếc xe ô tô BKS 18A-327.xx làm công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội NLQ không biết nên NLQ hoàn toàn không có lỗi.
Tuy nhiên, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo T và NLQ đều không kháng cáo đối với bản án sơ thẩm. Trong quá trình giải quyết vụ án, NLQ cũng không đề nghị chia tài sản chung của vợ chồng. Tại phiên tòa phúc thẩm, NLQ và bị cáo đề nghị cho NLQ xin lại ½ giá trị chiếc xe ô tô để giải quyết khó khăn của gia đình. Xét thấy, bị cáo Trần Ngọc T đã dùng chiếc xe ô tô BKS 18A-327.xx mang tên chủ xe Trần Ngọc T làm công cụ, phương tiện phạm tội nên căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cấp sơ thẩm đã tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước là đúng quy định của pháp luật. Nếu sau này có tranh chấp về tài sản chung thì NLQ có quyền khởi kiện bằng một vụ án dân sự khác vẫn đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của NLQ.
Từ phân tích trên, không có căn cứ để chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam.
Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo và người có quyền lợi, N vụ liên quan đến vụ án đều không phải chịu.
Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị cấp phúc thẩm không xem xét.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Nam; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 44/2023/HS-ST ngày 29 tháng 6 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Hà Nam về phần xử lý vật chứng.
Tịch thu sung ngân sách nhà 01 (một) chiếc xe ô tô biển kiểm soát 18A- 327.xx, nhãn hiệu TOYOTA, loại xe INNOVA-G, màu sơn: Ghi-bạc, số khung RL4XW43G379217451, số máy 1TR6444976, 08 chỗ ngồi, xe đã qua sử dụng.
Các vật chứng và tài liệu tạm giữ được xác định theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09/6/2023 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo và người có quyền lợi, N vụ liên quan đến vụ án đều không phải chịu.
Các Quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án..
Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 43/2023/HS-PT
Số hiệu: | 43/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nam |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về