TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 181/2023/HS-PT NGÀY 25/10/2023 VỀ TỘI CHỐNG NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 25 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 158/2023/TLPT-HS ngày 02 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Văn Đ do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Đ đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 64/2023/HS-ST ngày 18 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1964 tại tỉnh Bình Định; Nơi ĐKNKTT: Thôn B, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn C, sinh năm 1929 và bà Dương Thị H (chết); Vợ: Trương Thị S, sinh năm: 1966; Con: có 05 người con, lớn nhất sinh năm 1988, nhỏ sinh năm 1998; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào ngày 25/2/2023, Tổ tuần tra kiểm soát của Phòng C1 Công an tỉnh B, gồm: Đặng Minh D (Tổ trưởng), Nguyễn Văn K (Tổ viên), Phùng Quang T (tổ viên) và Lê Đào T1 (tổ viên) thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm trật tự an toàn giao thông tại đoạn đường Q thuộc thôn B, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định.
Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, Tổ công tác đang thực hiện nhiệm vụ thì phát hiện ông Nguyễn Văn Đ điều khiển xe mô tô biển số 81S1-X chạy hướng thị trấn D, huyện T đi huyện V, tỉnh Bình Định có dấu hiệu vi phạm nên ông D ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra. Tổ công tác tiến hành kiểm tra nồng độ cồn thì phát hiện ông Đ1 vi phạm nồng độ cồn (0.902 mg/L) nên tiến hành lập biên bản vi phạm. Ông Đ xin Tổ công tác bỏ qua lỗi vi phạm trên nhưng tổ công tác không đồng ý. Sau khi lập biên bản vi phạm, Tổ công tác yêu cầu ông Đ ký vào biên bản thì ông Đ không chấp hành và bỏ đi; đồng thời có lời lẽ chửi bới, xúc phạm Tổ công tác. Lúc này, ông D đi phía sau ông Đ giải thích và yêu cầu ông Đ vào ký biên bản vi phạm thì ông Đ quay người lại vung tay phải về phía ông D nhưng không trúng. Tiếp tục, ông Đ dùng cùi chỏ tay phải đánh một cái trúng vào mặt phía bên trái của ông D gây thương tích. Thấy vậy, Tổ công tác đến khống chế ông Đ và báo cáo Công an xã P, huyện T đến giải quyết.
Quá trình điều tra, ông Đặng Minh D giao nộp 01 (một) thẻ nhớ màu đen, trên thân có dòng chữ “Micro SD” dụng lượng 2GB, bên trong thẻ nhớ có lưu trữ 03 (ba) file video về nội dung việc nêu trên. Theo bản kết luận số 160/KL-KTHS ngày 20/4/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh B kết luận thì “Không tìm thấy giấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung, hình ảnh trong 01 (ba) file video được lưu trữ trong thẻ nhớ gửi giảm định.
Về vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã tạm giữ và xử lý vật chứng trả lại cho ông Nguyễn Văn Đ 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 mang tên Nguyễn Văn Đ. Đối với chiếc xe mô tô biển số 81S-X, do chưa xác định được nguồn gốc nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T đã chuyển cho Công an huyện T để tiếp tục xác minh, làm rõ và xử lý theo quy định pháp luật.
Về dân sự: Ông Đặng Minh D không có yêu cầu gì.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 64/2023/HS-ST ngày 18 tháng 7 năm 2023, Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định đã quyết định: Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Đồng phạm t “Chống người thi hành công vụ”.
Áp dụng khoản 1 Điều 330; các điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 06 (sáu) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí hình sự sơ thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 26/7/2023 bị cáo Nguyễn Văn Đ có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng thêm cho bị cáo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Đ; Giữ nguyên mức hình phạt tù và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Văn Đ khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để xác định:
Vào lúc 14h30’ ngày 25/02/2023 Tổ tuần tra kiểm soát của Phòng C1 Công an tỉnh B, gồm: Ông Đặng Minh D (tổ trưởng), Nguyễn Văn K (tổ viên), Phùng Quang T (tổ viên) và Lê Đào T1 (tổ viên) đang thực hiện nhiệm vụ tuần tra kiểm soát, xử lý vi phạm trật tự an toàn giao thông tại đoạn đường Q thuộc thôn B, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định thì phát hiện bị cáo Nguyễn Văn Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 81S1-X chạy hướng thị trấn D, huyện T đi huyện V, tỉnh Bình Định có dấu hiệu vi phạm nên ông Đặng Minh D ra dấu hiệu để bị cáo Đ dừng xe kiểm tra, qua kiểm tra bị cáo Nguyễn Văn Đ vi phạm nồng độ cồn (0,902mg/L), nên tổ công tác tiến hành lập biên bản vi phạm và yêu cầu bị cáo Đ ký vào biên bản nhưng bị cáo không chấp hành mà bỏ đi, đồng thời dùng lời lẽ, chửi bới, xúc phạm tổ công tác. Vừa chửi bới vừa dùng cùi chỏ tay phải đánh một cái trúng vào vùng mặt phía bên trái của ông D gây thương tích. Như vậy, Tòa án nhân dân huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định xét xử bị cáo Nguyễn Văn Đ về tội: “Chống người thi hành công vụ” quy định tại khoản 1 Điều 330 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo yêu cầu xin được giảm hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn Đ, Hội đồng xét xử nhận thấy: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đều không thừa nhận có hành vi chống người thi hành công vụ, tuy nhiên tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai do không kìm chế được bản thân đã có hành động chống đối với tổ tuần tra kiểm soát của Phòng cảnh sát giao thông tỉnh C1, có hành động đánh anh D (tổ trưởng tổ tuần tra). Hành vi nêu trên của bị cáo thể hiện ý thức xem thường pháp luật, chống đối cả lực chức năng đang làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát, giữ trật tự an toàn giao thông trên các tuyến quốc lộ tỉnh B. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội, mức độ và hậu quả bị cáo gây ra, áp dụng đầy đủ tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo 06 tháng tù, mức khởi điểm của khung hình phạt là tương xứng, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trên lĩnh vực an toàn giao thông, phục vụ tốt tình hình chính trị tại địa phương. Do đó, hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin được giảm hình phạt của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên.
[3] Về án phí hình sự phúc thẩm: Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[4] Các phần quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
[5] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Đ và cho bị cáo Đ được hưởng án treo là không phù hợp với nhận định của hội đồng xét xử nên không được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Căn cứ vào khoản 1 Điều 330; các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Đ, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 06 (Sáu) tháng tù về tội “Chống người thi hành công vụ”, thời hạn được tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.
3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu án 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các phần quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội chống người thi hành công vụ số 181/2023/HS-PT
Số hiệu: | 181/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/10/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về