Bản án về ly hôn và nuôi con số 93/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 93/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 55/2022/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 3 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2022/QĐXX-ST ngày 28 tháng 3 năm 2022 giữa:

Nguyên đơn: Anh Trần Mạnh C, sinh năm 1977; Đăng ký hộ khẩu thường trú: số M, phường L, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; Nơi cư trú: số 12 đường N, khu đô thị T phường H, thành phố Nam Định. Có mặt

Bị đơn: Chị Phạm Thị Kim L, sinh năm 1979; Đăng ký hộ khẩu thường trú: số M, phường L, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Nam Định. Vắng mặt do đề nghị giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Trong đơn khởi kiện đề ngày 03-3-2022, Bản tự khai ngày 11-3-2022, Biên bản lấy lời khai ngày 11-3-2022 và trong quá trình tham gia tố tụng cũng như tại phiên tòa nguyên đơn là anh Trần Mạnh C trình bày:

Về quan hệ hôn nhân và mâu thuẫn vợ chồng: Anh và chị Phạm Thị Kim L kết hôn trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn vào ngày 23-12-2003 tại UBND phường L, thành phố Nam Định. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống đến khoảng đầu năm 2020 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm lối sống, chị L không tu chí làm ăn vay mượn nhiều người mà không có sự đồng ý của anh C. Đến năm 2021 chị L đã bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 15 tháng tù vì tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Hiện tại chị L đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định và vợ chồng đã sống ly thân từ khi chị L bị bắt cho đến nay. Nay anh C xác định tình cảm vợ chồng không còn và xin được ly hôn chị L.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Trần Châu A, sinh ngày 08-11- 2004, giới tính Nữ và Trần Anh D, sinh ngày 03-01-2017, giới tính Nam. Về việc nuôi con, do chị L đang chấp hành án nên anh C có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc hai con. Về cấp dưỡng anh C không yêu cầu chị L phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và vay nợ chung: Anh C không yêu cầu Toà án giải quyết.

2. Tại bản tự khai ngày 15-3-2022 và Biên bản lấy lời khai ngày 21-3-2022 chị Phạm Thị Kim L trình bày:

Về hôn nhân: Chị L xác nhận điều kiện kết hôn của vợ chồng như anh C trình bày là đúng. Về mâu thuẫn vợ chồng chị L trình bày: Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận đến khoảng đầu năm 2012 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do vấn đề kinh tế. Sau đó chị L đã bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 15 tháng tù vì tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Vợ chồng chị cũng ly thân từ khi chị L bị giam giữ đến nay. Nay anh C có nguyện vọng ly hôn, chị L không đồng ý và đề nghị sau khi chấp hành án xong sẽ làm đơn đề nghị ly hôn với anh C. Do chị L đang chấp hành án nên đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Trần Châu A, sinh ngày 08-11- 2004, giới tính Nữ và Trần Anh D, sinh ngày 03-01-2017, giới tính Nam. Về việc nuôi con, chị L đồng ý để anh C trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không phải cấp dưỡng nuôi con. Chị L đề nghị sau khi chấp hành án thì vợ chồng sẽ thỏa thuận lại về vấn đề nuôi con cũng như cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và vay nợ chung: Chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chị L đề nghị sau khi chấp hành án vợ chồng tự thỏa thuận vấn đề tài sản chung và vay nợ chung, nếu không thỏa thuận được sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết bằng một vụ án riêng về chia tài sản chung của vợ chồng.

3. Tại biên bản thu thập tài liệu, chứng cứ ngày 15-3-2022 tại tổ dân phố số 2 phường H xác nhận quá trình chung sống cũng như nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng anh C và chị L là do vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống. Chị L hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định. Về con chung, anh C và chị L có 02 con chung là Trần Châu A, sinh ngày 08-11-2004, giới tính Nữ và Trần Anh D, sinh ngày 03-01-2017, giới tính Nam. Về việc nuôi con, hiện nay các con đang ở với anh C. Nay anh C có nguyện vọng ly hôn và nuôi con chung, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

4. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 48 và Điều 97 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cho ly hôn giữa anh Trần Mạnh C và chị Phạm Thị Kim L.

Về nuôi con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận sự tự nguyện của anh C và chị L giao 02 con là Trần Châu A, sinh ngày 08-11-2004, giới tính Nữ và Trần Anh D, sinh ngày 03-01-2017, giới tính Nam cho anh C trực tiếp nuôi dưỡng, chị L không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và công nợ: Anh C và chị L không đề nghị giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Anh C là nguyên đơn nên phải nộp án phí ly hôn theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ lời trình bày và đề nghị của đương sự tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Chị Phạm Thị Kim L là bị đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Về điều kiện kết hôn: Anh Trần Mạnh C và chị Phạm Thị Kim L kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường L, thành phố Nam Định ngày 23-12-2003. Như vậy hôn nhân giữa anh C và chị L là hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Về mâu thuẫn vợ chồng: Theo anh C trình bày, sau khi kết hôn anh C và chị L chung sống hòa thuận một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn của vợ chồng do chị L không tu chí làm ăn, vay mượn của nhiều người mà không có sự đồng ý của anh C. Đến năm 2021 đã bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định xử phạt 15 tháng tù vì tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Hiện tại chị L đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định và vợ chồng đã sống ly thân từ khi chị L bị tạm giam cho đến nay. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa anh C và chị L ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 xử cho ly hôn giữa anh Trần Mạnh C và chị Phạm Thị Kim L.

[3] Về việc nuôi con chung: Anh C có nguyện vọng được nuôi dưỡng hai con Trần Châu A và Trần Anh D. Hội đồng xét xử nhận thấy hiện tại các con chung đang ở cùng với anh C và do anh C trực tiếp chăm sóc. Cháu Trần Châu A cũng có nguyện vọng được ở với bố nếu bố mẹ ly hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng vào các Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao 02 con là Trần Châu A, sinh ngày 08-11-2004, giới tính Nữ và Trần Anh D, sinh ngày 03-01-2017, giới tính Nam cho anh C trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh C tự nguyện không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con nên chấp nhận sự tự nguyện của anh C là phù hợp với qui định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung và vay nợ chung: Anh C và chị L xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, anh Trần Mạnh C là nguyên đơn trong vụ án nên phải phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa anh Trần Mạnh C và chị Phạm Thị Kim L

2. Về nuôi con chung: Giao 02 con chung là Trần Châu A, sinh ngày 08-11- 2004, giới tính Nữ và Trần Anh D, sinh ngày 03-01-2017, giới tính Nam cho anh Trần Mạnh C trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chấp nhận sự tự nguyện của anh C không yêu cầu chị L cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.

Người không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung

3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Trần Mạnh C phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Đối trừ khoản tiền tạm ứng án phí anh C đã nộp tại biên lai số 0005173 ngày 08-3-2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nam Định.

4. Về quyền kháng cáo: Anh Trần Mạnh C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Phạm Thị Kim L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và nuôi con số 93/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:93/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về