Bản án ly hôn, nuôi con số 47/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 47/2021/HNGĐ-ST NGÀY 08/09/2021 LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 08 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giao Thủy xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 84/2021/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2021 về việc “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2021/QĐST-HNGĐ ngày 17 tháng 8 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Vũ Thanh H; sinh năm 1979; nơi cư trú: xóm 17 xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; "vắng mặt".

- Bị đơn: Chị Trần Thị G; sinh năm 1982; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm 17, xã A, huyện B, tỉnh Nam Định; nơi ở hiện nay: Xóm 15, xã G, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định; "vắng mặt".

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai tại Toà án, nguyên đơn anh Vũ Thanh H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Trần Thị G tự nguyện tìm hiểu, kết hôn, đã được UBND xã A cấp Giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 20- 01- 2000. Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được khoảng một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do lối sống, tính cách không hợp. Từ năm 2015, chị Giang thường xuyên bỏ nhà đi, không chăm lo cho gia đình. Nay anh xác định không còn tình cảm với chị Giang, không còn cơ hội hàn gắn hạnh phúc nên anh xin ly hôn chị Trần Thị G.

Về con chung: Vợ chồng có 03 con chung là Vũ Minh Đ, sinh ngày 02-6- 2001; Vũ Thị D, sinh ngày 31-3-2003 và Vũ Trung T, sinh ngày 09-8-2010. Con chung Vũ Minh Đ và Vũ Thị D đã trưởng thành, có khả năng lao động tự lập được. Khi ly hôn anh nhận nuôi con chưa thành niên Vũ Trung T, không yêu cầu chị Giang cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Anh không đề nghị giải quyết.

Đối với chị Trần Thị G: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị Giang nhưng chị Giang không trình bày quan điểm và không đến của Tòa án để làm việc.

Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ tại xã A, huyện Giao Thủy; Việc kết hôn, chung sống vợ chồng, nuôi con chung như anh Vũ Thanh H trình bày là đúng.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Thẩm phán và những người tiến hành tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, nguyên đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa nên Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp.

Về nội dung, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, cho ly hôn giữa anh Vũ Thanh H và chị Trần Thị G. Căn cứ vào các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình, giao con chung Vũ Trung T, sinh ngày 09-8-2010 cho anh Vũ Thanh H trực tiếp nuôi dưỡng, chị Giang không phải cấp dưỡng nuôi con cho anh H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn anh Vũ Thanh H có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn chị Trần Thị G được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại phiên tòa. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh Vũ Thanh H và chị Trần Thị G kết hôn hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng của anh H và chị Giang không có hạnh phúc, đã sống ly thân trong thời gian dài, chị Giang không đến Tòa án để làm việc, không tham gia hòa giải. Như vậy, mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa anh Vũ Thanh H và chị Trần Thị G đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Vũ Thanh H và chị Trần Thị G, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình.

[3] Về việc nuôi con: Xác định vợ chồng anh Vũ Thanh H và chị Trần Thị G có 01 con chung là Vũ Trung T, sinh ngày 09-8-2010. Căn cứ vào nguyện vọng của con, điều kiện và nguyện vọng nuôi con và quy định tại các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; đủ cơ sở giao cho anh Vũ Thanh H tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con Vũ Trung T; ghi nhận sự tự nguyện của anh Vũ Thanh H không yêu cầu chị Trần Thị G cấp dưỡng nuôi con. Chị Giang có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[4 ] Về án phí: Anh Vũ Thanh H là nguyên đơn nên phải nộp án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

[5] Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; xử cho ly hôn giữa anh Vũ Thanh H và chị Trần Thị G.

2. Về việc nuôi con chung chưa thành niên: Căn cứ các điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; giao cho anh Vũ Thanh H trực tiếp nuôi con Vũ Trung T, sinh ngày 09- 8- 2010; ghi nhận sự tự nguyện của anh Vũ Thanh H không yêu cầu chị Trần Thị G cấp dưỡng nuôi con. Chị Trần Thị G không phải cấp dưỡng nuôi con nhưng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 kèm theo Danh mục án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc hội; buộc: Anh Vũ Thanh H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu số 0004021 ngày 25 tháng 6 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giao Thủy. Anh Vũ Thanh H đã nộp đủ án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

480
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án ly hôn, nuôi con số 47/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:47/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về