Bản án về ly hôn và nuôi con số 122/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 122/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/05/2022 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON

Ngày 23 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 85/2022/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 45/2022/QĐXX-ST ngày 12 tháng 5 năm 2022 giữa:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị V, sinh năm 1980; Nơi cư trú: tổ dân phố N, thị trấn Q, huyện G, tỉnh Nam Định. Có mặt

Bị đơn: Anh Ngô Đình Q, sinh năm 1978; Nơi cư trú: số nhà N phố M, phường N, thành phố N, tỉnh Nam Định;

Người đại diện hợp pháp: Bà Vũ Thị H, sinh năm 1959; Nơi cư trú: số nhà N phố M, phường N, thành phố N, tỉnh Nam Định (là mẹ đẻ anh Q). Vắng mặt do đề nghị giải quyết vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Trong đơn khởi kiện đề ngày 10-4-2022, Bản tự khai ngày 20-4-2022, Biên bản lấy lời khai ngày 25-4-2022 và trong quá trình tham gia tố tụng cũng như tại phiên tòa nguyên đơn là chị Trần Thị V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân và mâu thuẫn vợ chồng: Chị và anh Ngô Đình Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 22-3-2004 tại UBND phường Ng, thành phố Nam Định. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại địa chỉ số 5 phố Máy Tơ, phường Ng, thành phố Nam Định. Tuy nhiên, đến khoảng năm 2006 do anh Q thường hay la hét, đập phá đồ đạc không kiểm soát được hành vi nên chị V và gia đình đã đưa anh Q đi điều trị tại Bệnh viện tâm thần tỉnh Nam Định nhiều lần nhưng đều không cải thiện được tình trạng tâm thần kinh của anh Q. Do lo sợ cho sự an toàn của chị và con gái nên chị V đã chuyển vể Giao Thủy sinh sống từ năm 2006 và vợ chồng đã sống ly thân. Ngày 08-3-2022 chị V đã làm đơn gửi Tòa án nhân dân thành phố Nam Định yêu cầu tuyên bố anh Ngô Đình Q là người mất năng lực hành vi dân sự nhưng do gia đình anh Q không đồng ý đưa anh Q đi giám định tâm thần tại Viện pháp y tâm thần Trung ương, địa chỉ: xã Hòa Bình, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội nên ngày 01-4-2022 chị V đã rút yêu cầu tuyên bố anh Ngô Đình Q là người mất năng lực hành vi dân sự đồng thời chị V đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Q.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Ngô Thị Thu U, sinh ngày 30- 12-2004, giới tính Nữ. Về việc nuôi con, chị V có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng và chăm sóc con chung. Về cấp dưỡng: chị V không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và vay nợ chung: Chị V không yêu cầu Toà án giải quyết.

2. Tại Biên bản lấy lời khai ngày 20-4-2022 bà Vũ Thị H là người đại diện của anh Ngô Đình Q trình bày:

Về hôn nhân: Bà Hạt xác nhận điều kiện kết hôn của vợ chồng chị V và anh Q như chị V trình bày là đúng. Về mâu thuẫn vợ chồng chị V và anh Q bà Hạt trình bày: Sau khi kết hôn thì chị V sinh sống với anh Q và gia đình bà tại địa chỉ số 5 phố Máy Tơ, phường Ng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Do anh Q bị bệnh tâm thần không kiểm soát được hành vi nên bà Hạt và gia đình đã đưa anh Q đi điều trị tại Bệnh viện tâm thần tỉnh Nam Định nhiều lần nhưng đều không cải thiện được tình trạng tâm thần kinh của anh Q. Đến khoảng năm 2006 thì chị V đã bỏ về quê tại Giao Thủy sinh sống, vợ chồng chị V anh Q cũng ly thân từ năm 2006 cho đến nay. Nay chị V có nguyện vọng ly hôn với anh Q, quan điểm của bà Hạt cũng nhất trí với đề nghị của chị V.

Về con chung: Vợ chồng chị V và anh Q có 01 con chung là Ngô Thị Thu U, sinh ngày 30-12-2004, giới tính Nữ. Về việc nuôi con, bà Hạt đồng ý để chị V trực tiếp nuôi dưỡng con chung và anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và vay nợ chung của chị V và anh Q: Bà Hạt không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Tại biên bản thu thập tài liệu, chứng cứ ngày 26-4-2022 tại tổ dân phố số 2 phường Ng xác nhận quá trình chung sống cũng như nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng chị V và anh Q là do anh Q bị bệnh tâm thần. Về con chung, chị V và anh Q có 01 con chung là Ngô Thị Thu U, sinh ngày 30-12-2004, giới tính Nữ. Về việc nuôi con, hiện nay con chung đang ở với chị V. Nay chị V có nguyện vọng ly hôn và nuôi con chung, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

4. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 48 và Điều 97 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự.

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cho ly hôn giữa chị Trần Thị V và anh Ngô Đình Q.

Về nuôi con chung: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con là Ngô Thị Thu U, sinh ngày 30-12-2004, giới tính Nữ cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng, anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và công nợ: chị V và bà Hạt không đề nghị giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Về án phí: Chị V là nguyên đơn nên phải nộp án phí ly hôn theo qui định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ lời trình bày và đề nghị của đương sự tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về người tham gia tố tụng và thủ tục tố tụng:

Do anh Q có bệnh án tâm thần nên chị V đã làm đơn yêu cầu Tuyên bố anh Ngô Đình Q là người mất năng lực hành vi dân sự và đề nghị Tòa án ra Quyết định trưng cầu giám định pháp y tâm thần đối với anh Ngô Đình Q. Tuy nhiên, bà Vũ Thị H là mẹ đẻ anh Q không đồng ý đưa anh Q đi giám định tâm thần tại Viện pháp y tâm thần Trung ương đồng thời chị Trần Thị V xác nhận cũng không thể đưa anh Q đi giám định tâm thần được. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi của anh Ngô Đình Q, Hội đồng xét xử coi anh Ngô Đình Q là người bị hạn chế năng lực, hành vi và bà Vũ Thị H tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp của anh Ngô Đình Q. Do bà Vũ Thị H đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt người đại diện hợp pháp của bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Về điều kiện kết hôn: Chị Trần Thị V và anh Ngô Đình Q kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND phường Ng, thành phố Nam Định ngày 22-3-2004. Như vậy hôn nhân giữa chị V và anh Q là hôn nhân hợp pháp.

[2.2] Về mâu thuẫn vợ chồng: Sau khi kết hôn chị V và anh Q chung sống hòa thuận một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Q có nhiều biểu hiện của bệnh tâm thần, hay la hét, đập phá đồ đạc không kiểm soát được hành vi. Chị V và gia đình đã đưa anh Q đi điều trị tại Bệnh viện tâm thần tỉnh Nam Định nhiều lần nhưng đều không cải thiện được tình trạng tâm thần kinh của anh Q. Xét thấy, vợ chồng chị V và anh Q đã ly thân nhiều năm, tình trạng hôn nhân ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 xử cho ly hôn giữa chị Trần Thị V và anh Ngô Đình Q.

[3] Về việc nuôi con chung: Chị V có nguyện vọng được nuôi dưỡng con Ngô Thị Thu U. Hội đồng xét xử nhận thấy hiện tại con chung đang ở cùng với chị V và do chị V trực tiếp chăm sóc. Cháu Ngô Thị Thu U cũng có nguyện vọng được ở với mẹ nếu bố mẹ ly hôn. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 giao con Ngô Thị Thu U, sinh ngày 30-12-2004, giới tính Nữ cho chị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị V tự nguyện không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con nên chấp nhận sự tự nguyện của chị V là phù hợp với qui định của pháp luật.

[4] Về tài sản chung và vay nợ chung: Chị V và bà Hạt xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 - 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chị Trần Thị V là nguyên đơn trong vụ án nên phải phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

n cứ Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;

n cứ Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Trần Thị V và anh Ngô Đình Q

2. Về nuôi con chung: Giao con chung là Ngô Thị Thu U, sinh ngày 30-12- 2004, giới tính Nữ cho chị Trần Thị V trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chấp nhận sự tự nguyện của chị V không yêu cầu anh Q cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.

Người không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung

3. Án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Trần Thị V phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Đối trừ khoản tiền tạm ứng án phí chị V đã nộp tại biên lai số 0005229 ngày 18-4-2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nam Định.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị V có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Ngô Đình Q và bà Vũ Thị H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và nuôi con số 122/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:122/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về