Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 81/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN DƯƠNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

 BẢN ÁN 81/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 12 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở, Toà án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 142/2022/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 8 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lê Thị Thanh T; địa chỉ: Thôn V, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Trần K; nơi ĐKHKTT: Thôn V, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, hiện tại đang chấp hành án tại phân trại 3 Trại giam Hoàng Tiến, tỉnh Hải Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện xin ly hôn và quá trình tố tụng nguyên đơn là chị Lê Thị Thanh T trình bày:

Chị kết hôn với anh Trần K trên cơ sở hai bên đều tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng vào ngày 21/6/2018. Sau ngày cưới hai bên về chung sống tại thôn V, xã A, huyện An Dương. Quá trình chung sống, vợ chồng sống hòa thuận vui vẻ với nhau được đến năm 2019 phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống dẫn đến vợ chồng nhiều lần xảy ra tranh cãi bất hòa, chị đã tìm nhiều cách khắc phục nhưng không được, mâu thuẫn trở lên trầm trọng căng thẳng hơn. Đầu năm 2021, anh K vi phạm pháp luật và bị Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt 27 tháng tù về tội Tổ chức đánh bạc. Hiện tại anh K đang chấp hành án tại phân trại 3, Trại giam Hoàng Tiến, tỉnh Hải Dương. Do tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, hai bên không thể khắc phục mâu thuẫn, sống ly thân. Đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần K.

Về con chung: Chị và anh Trần K có 01 con chung là Trần Tuấn K, sinh ngày 22/11/2018. Đề nghị Tòa án giao con chung cho chị nuôi dưỡng sau ly hôn. Cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện tại chị làm tự do có thu nhập và thời gian để nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 25 tháng 8 năm 2022 anh Trần K trình bày:

Anh và chị Lê Thị Thanh T kết hôn tự nguyện có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng vào năm 2018. Sau kết hôn vợ chồng sống tại xã A, huyện An Dương. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận không có mâu thuẫn gì lớn. Đến năm 2021 anh vi phạm pháp luật, Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt anh 27 tháng tù về tội Tổ chức đánh bạc, hiện anh đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam Hoàng Tiến, tỉnh Hải Dương. Việc chị T xin ly hôn anh có quan điểm đồng ý ly hôn do tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, không thể khắc phục đoàn tụ. Đề nghị Tòa án giải quyết cho anh và chị T ly hôn.

Về con chung: Anh và chị Lê Thị Thanh T có 01 con chung là Trần Tuấn K, sinh ngày 22/11/2018. Đề nghị Tòa án giao con chung cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn. Về cấp dưỡng nuôi con chung hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng. Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn và bị đơn đã chấp hành đúng quy định về quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại các điều 70, 71, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào các điều 28, 147, 227, 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; các điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 39 Bộ luật Dân sự: Xử cho chị Lê Thị Thanh T được ly hôn anh Trần K. Về con chung: Giao con chung Trần Tuấn K, sinh ngày 22/11/2018 cho chị Lê Thị Thanh T nuôi dưỡng sau ly hôn. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Không xem xét giải quyết. Về tài sản chung: Không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị Lê Thị Thanh T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm nộp vào ngân sách Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết tranh chấp: Chị Lê Thị Thanh T khởi kiện xin ly hôn anh Trần K có ĐKHKTT: Thôn V, xã A, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình theo quy định tại Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Dương, thành phố Hải Phòng theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét việc vắng mặt của chị Lê Thị Thanh T và anh Trần K: Tại phiên tòa chị T, anh K đều vắng mặt nhưng có quan điểm đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt chị Lê Thị Thanh T và anh Trần K.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ vào lời khai của đương sự, căn cứ vào chứng cứ do đương sự cung cấp và các chứng cứ do Toà án thu thập đã có đủ cơ sở xác định lời khai của chị Lê Thị Thanh T và anh Trần K về thời gian kết hôn, quá trình chung sống giữa hai bên là đúng sự thật. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống gia đình. Năm 2021, anh K vi phạm pháp luật, Tòa án nhân dân huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương xử phạt 27 tháng tù về tội Tổ chức đánh bạc, hiện anh K đang chấp hành án phạt tù tại Trại Hoàng Tiến, tỉnh Hải Dương. Quá trình giải quyết vụ án, chị T, anh K xác định tình cảm vợ chồng không còn, hôn nhân không có hạnh phúc, mâu thuẫn nghiêm trọng không thể khắc phục đoàn tụ và đều có nguyện vọng đề nghị Tòa án giải quyết cho hai bên được ly hôn.

Xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa chị T và anh K đã kéo dài và trở nên trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, sống ly thân, tình cảm vợ chồng không còn. Căn cứ vào các điều 51, 56 Luật Hôn nhân và Gia đình xử cho chị Lê Thị Thanh T và anh Trần K ly hôn.

[4] Về con chung: Chị Lê Thị Thanh T và anh Trần K có một con chung là Trần Tuấn K, sinh ngày 22/11/2018. Xét thấy, việc nuôi dưỡng con chung là quyền đồng thời là nghĩa vụ của cha mẹ. Quá trình giải quyết vụ án, chị T, anh K có quan điểm thống nhất đề nghị Tòa án giao con chung cho chị T nuôi dưỡng sau ly hôn, về cấp dưỡng nuôi con chung tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ do đương sự cung cấp và do Tòa án thu thập, điều kiện nuôi dưỡng con chung, quan điểm của đương sự. Hội đồng xét xử, xét thấy giao con chung Trần Tuấn K cho chị Lê Thị Thanh T nuôi dưỡng sau ly hôn là phù hợp.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn: Hội đồng xét xử tạm thời không xem xét giải quyết, sau này các bên có tranh chấp về cấp dưỡng con chung sau ly hôn, Tòa án xem xét giải quyết bằng vụ kiện dân sự khác. Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật [6] Về tài sản chung: Chị Lê Thị Thanh T và anh Trần K không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử tạm thời không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Chị Lê Thị Thanh T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo của các đương sự: Chị Lê Thị Thanh T và anh Trần K có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, các điều 70, 143, 147, khoản 1 Điều 227; các điều 228, 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 39 Bộ luật Dân sự; các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình

Căn cứ vào Điều 6, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Quốc hội ban hành ngày 30 tháng 12 năm 2016.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Thanh T được ly hôn anh Trần K.

2. Về con chung: Giao con chung Trần Tuấn K, sinh ngày 22/11/2018 cho chị Lê Thị Thanh T trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn. Thời hạn nuôi con chung tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung sau ly hôn: Chị Lê Thị Thanh T và anh Trần K không yêu cầu, Hội đồng xét xử tạm thời không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

4. Về tài sản chung: Chị Lê Thị Thanh T và anh Trần K không yêu cầu, Hội đồng xét xử tạm thời không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Chị Lê Thị Thanh T phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước. Được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí ly hôn chị T đã nộp (Biên lai thu tiền số 0004251 ngày 01 tháng 8 năm 2022) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Chị Lê Thị Thanh T đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành án tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị Thanh T và anh Trần K được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 81/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:81/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Dương - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về