Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 47/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ XUYÊN - TỈNH SỐC TRĂNG

BẢN ÁN 47/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Xuyên, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 88/2022/TLST-HNGĐ, ngày 22 tháng 06 năm 2022 về việc “ Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2022/QĐ-ST, ngày 19/7/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Hà Thị T, sinh năm 1992 (Có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Khu D, xã K, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ.

- Bị đơn: Ông Thái Huy T, sinh năm 1992 (Có đơn xin vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ 8, ấp C, thị trấn M, huyện Mỹ Xuyên, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 12/5/2021, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn bà Hà Thị T trình bày: Vào năm 2012 bà T và ông T có tổ chức đám cưới trên tinh thần tự nguyện của hai bên và năm 2019 có đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ vào ngày 19/01/2012 theo quy định. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung với nhau cũng hạnh phúc. Đến cuối năm 2014 thì vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn lý do là bất đồng quan điểm, tính tình không còn hợp nhau và vợ chồng sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay. Nay bà T nhận thấy tình cảm vợ chồng không hàn gắn lại được vì bà không còn tình cảm với ông T nữa nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông T. Về con chung trong thời gian chung sống vợ chồng có 01 con chung là cháu Thái Thị Thùy T, sinh ngày 02/05/2012, hiện nay đang sống với bà T.

Nay về con chung bà T yêu cầu được nuôi dưỡng cháu T đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung không có nên không yêu cầu giải quyết.

- Đối với bị đơn ông Thái Huy T có văn bản ghi y kiến trả lời Thông báo thụ lý của Tòa án là ông T thống nhất ly hôn với bà T, về con chung ông T thống nhất để bà T nuôi con chung là cháu Thái Thị Thùy T ông không cấp dưỡng nuôi con, về tài sản chung, nợ chung không có.

* Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về đường lối giải quyết vụ án là đề nghị HĐXX cho bà T được ly hôn với ông T. Về con chung giao cho bà T được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Thái Thị Thùy T, sinh ngày 02/05/2012, ông T không phải cấp dưỡng nuôi con. Ông T được quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Về tài sản chung, nợ chung, không có nên không đặt vấn đề xem xét. Đối với việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Về thủ tục tố tụng: Do nguyên đơn và bị đơn đều đã có đơn yêu cầu xin xét xử vắng mặt. Vì vậy áp dụng khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt ông T và bà T theo quy định pháp luật.

Về nội dung:

- Về hôn nhân:

Bà Hà Thị T và ông Thái Huy T tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2012 và có làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã K, huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ theo quy định. Thời gian đầu hai vợ chồng chung sống với nhau rất hạnh phúc, sau đó đến năm 2014 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm và cuối cùng vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay không hàn gắn lại được.

Xét thấy, do trong quá trình chung sống giữa ông T và bà T không hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống, do đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, sống không hạnh phúc, ông bà đã sống ly thân thời gian dài mà không có điều kiện hàn gắn trở lại. Từ đó cho thấy, mâu thuẫn tình cảm vợ chồng giữa hai người là trầm T, cuộc sống chung không có cơ sở để tồn tại, dẫn đến mục đích hôn nhân xây dựng gia đình hạnh phúc không thể đạt được. Do vậy việc bà T yêu cầu được ly hôn với ông T là có căn cứ để chấp nhận theo quy định của pháp luật.

- Về con chung: Trong quá trình chung sống, ông T và bà T đã có với nhau có 01 con chung là cháu Thái Thị Thùy T, sinh ngày 02/05/2012, hiện nay đang sống với bà T. Nay về con chung bà T yêu cầu được nuôi dưỡng cháu T đến đủ 18 tuổi không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu T hiện còn nhỏ, từ trước đến nay cháu sống với bà T, nguyện vọng của cháu T cũng xin được sống với mẹ, vì vậy cần tiếp tục để cháu T được sống chung với mẹ và giao cháu T cho bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi là phù hợp, ông T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Bà T không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét đối với nghĩa vụ cấp dưỡng đối với ông T.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề xem xét.

+ Về án phí: Căn cứ vào khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội thì bà T phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn.

Đối với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Toàn bộ quan điểm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Xuyên đã nêu là có căn cứ và phù hợp với những tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét, đánh giá tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát đã nêu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228, Điều 271;

khoản 1 Điều 273; khoản 1 Điều 280, của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

- Khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, khoản 1, khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hà Thị T.

- Về hôn nhân Bà Hà Thị T được ly hôn với ông Thái Huy T.

- Về con chung : Bà T được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chung là cháu Thái Thị Thùy T, sinh ngày 02/05/2012, đến đủ 18 tuổi. Dành quyền thăm nom chăm sóc con cho ông T không ai được quyền cản trở.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

- Về tài sản chung : Không có yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

- Về nợ chung : Không có nên không đặt ra xem xét.

- Án phí hôn nhân sơ thẩm : Bà T phải chịu 300.000đ, nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng đã nộp 300.000đ, theo biên lai thu tiền số 0005425, ngày 21/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Xuyên, như vậy bà T đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc ngày niêm yết bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

39
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 47/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:47/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Xuyên - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về