Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 04/2023/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 04/2023/HNGĐ-ST NGÀY 16/01/2023 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 16/01/2023, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố P xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 85/2022/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 10 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2022/QĐST-HNGĐ ngày 05/12/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2022/QĐST-HNGĐ ngày 27/12/2022 giữa các đương sự:

1-Nguyên đơn: chị Vũ Thị L, sinh năm 1973;

Nơi cư trú: thôn C, xã C, huyện G, tỉnh Hải Dương, vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xử án vắng mặt).

2-Bị đơn: anh Nguyễn Quang V, sinh năm 1973;

Nơi cư trú: tổ 36, khu 4A2, phường C, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1-Trong đơn khởi kiện đề ngày 07/9/2022, bản tự khai đề ngày 18/10/2022 và đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 06/01/2023, nguyên đơn chị Vũ Thị L trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: chị Vũ Thị L và anh Nguyễn Quang V có đăng ký kết hôn vào ngày 21/3/2007 tại Ủy ban nhân dân phường C, thị xã P (nay là thành phố P), tỉnh Quảng Ninh, trên cơ sở tự nguyện, trước khi kết hôn chưa ai có vợ có chồng. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai bên bất đồng quan điểm, tính cách không hợp nhau. Vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một quê từ năm 2012 cho đến nay. Chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh Nguyễn Quang V - Về con chung: vợ chồng có một con chung là Nguyễn Trung H (sinh ngày 06/9/2012). Từ sau khi sinh con, chị và anh V đã sống ly thân. Chị và con về sinh sống tại Hải Dương, còn anh V thì vẫn ở C, thành phố P. Nay chị xin ly hôn anh V, chị đề nghị giao con chung Nguyễn Trung H cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cho đến khi con chung đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi) và không yêu cầu anh V phải cấp dưỡng nuôi con chung Nguyễn Trung H - Về tài sản chung, công nợ chung: Không có.

2- Đối với bị đơn anh Nguyễn Quang V: Tòa án nhân dân thành phố P đã triệu tập hợp lệ nhiều lần đến trụ sở Tòa án nhân dân thành phố P để giải quyết yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị L đối với anh Nguyễn Quang V nhưng anh V đều vắng mặt không có lý do.

3-Xác nhận của thôn C, xã C, huyện G, tỉnh Hải Dương, nơi chị L cư trú sinh sống thể hiện: chị Vũ Thị L và chồng là anh Nguyễn Quang V sống ly thân với nhau từ năm 2012. Hiện chị L và con trai ở với nhau tại thôn C, xã C, huyện G, tỉnh Hải Dương.

Xác nhận của khu phố 4A2, phường C, thành phố P, nơi anh V đang cư trú sinh sống thể hiện: anh Nguyễn Quang V hiện đang cư trú sinh sống một mình tại tổ 36, khu 4A2, phường C, thành phố P, tỉnh Quảng Ninh. Vợ anh V là chị Vũ Thị L không chung sống cùng anh V, hai người đã sống ly thân nhau từ năm 2012 cho đến nay.

4- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố P có quan điểm:

-Về tố tụng: trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, vắng mặt có đơn xin xử án vắng mặt. Bị đơn không thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, vắng mặt không có lý do, nên căn cứ khoản 1 Điều 227 và Khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

- Về nội dung khởi kiện: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: chị Vũ Thị L được ly hôn anh Nguyễn Quang V.

Về con chung: chị Vũ Thị L và anh Nguyễn Quang V có một (01) con chung là Nguyễn Trung H (sinh ngày 06/9/2012).

Giao cho chị Vũ Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Nguyễn Trung H cho đến khi con chung đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi), anh Nguyễn Quang V không phải cấp dưỡng nuôi con chung với chị V.

Về tài sản chung, công nợ chung: không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: chị Vũ Thị L yêu cầu xin ly hôn với anh Nguyễn Quang V hiện cư trú tại địa bàn thành phố P nên Tòa án nhân dân thành phố P thụ lý giải quyết với quan hệ pháp luật “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” là đúng quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Chị Vũ Thị L vắng mặt có đơn xin xử án vắng mặt, anh Nguyễn Quang V vắng mặt lần thứ hai không có lý do mặc dù Tòa án đã tiến hành tống đạt văn bản tố tụng theo quy định của pháp nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định tại khoản 1Điều 227, khoản 1Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2]VÒ nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: hôn nhân của chị Vũ Thị L và anh Nguyễn Quang V trên cơ sở hoàn toàn hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 21/3/2007 tại Ủy ban nhân dân phường C, thị xã P (nay là thành phố P), tỉnh Quảng Ninh - đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Theo lời trình bày của chị L cũng như xác nhận của chính quyền địa phương nơi chị L và nơi anh V cư trú thì vợ chồng chị L và anh V mâu thuẫn từ năm 2012, nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, tính cách hai bên không hợp nhau. Chị L và anh V đã sống ly thân nhau hơn 10 năm nay không hàn gắn và không ai quan tâm đến ai.Hội đồng xét xử thấy rằng: mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị L và anh V là có căn cứ phù hợp theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

- Về con chung: chị Vũ Thị L và anh Nguyễn Quang V có 01 (một) con chung là Nguyễn Trung H (sinh ngày 06/9/2012).

Đối với con chung Nguyễn Trung H thì do cháu H đang có cuộc sống học tập ổn định bên chị L. Chính quyền địa phương nơi chị L sinh sống cũng xác nhận cháu Nguyễn Trung H được mẹ chăm sóc, nuôi ăn học chu đáo. Trường tiểu học C xác nhận: cháu Nguyễn Trung H luôn được mẹ quan tâm, chăm sóc cho học hành đầy đủ, không bỏ học, thôi học hay gián đoạn việc học. Hơn nữa chị L có quan điểm giao con chung Nguyễn Trung H cho chị nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi). Quan điểm này của chị L cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu Nguyễn Trung H muốn được ở với mẹ. Hội đồng xét xử thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu về việc nuôi con chung của chị L.

Về cấp dưỡng nuôi con: chị L không yêu cầu anh V có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

-Về tài sản chung, công nợ chung: chị L xác định không có tài sản chung, nợ chung nên không đề cập.

[3] Về án phí: chị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[4] Về quyền kháng cáo: Chị L và anh V được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Khoản 1 Điều 28; Điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 271 và Điều 273 - Bộ luật Tố tụng Dân sự. Các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị L.

-Về quan hệ hôn nhân: chị Vũ Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Quang V.

-Về con chung: chị Vũ Thị L và anh Nguyễn Quang V có một con chung là Nguyễn Trung H (sinh ngày 06/9/2012).

Giao cho chị Vũ Thị L trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung Nguyễn Trung H cho đến khi con chung đến tuổi thành niên (đủ 18 tuổi), anh Nguyễn Quang V không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Nguyễn Quang V có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc con chung không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không ai được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

- Về tài sản chung, công nợ chung: không có.

- Về án phí: Chị Vũ Thị L phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) là tiền tạm ứng án phí chị L đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Quảng Ninh theo Biên lai thu tiền số 0005195 ngày 29/9/2022.

Án xử công khai sơ thẩm vắng mặt các đương sự, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 04/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:04/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về