Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 11/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 11/2022/HNGĐ-ST NGÀY 02/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 02-3-2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 187/2021/TLST-HNGĐ ngày 06-10-2021, về việc Ly hôn và tranh chấp nuôi con. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17-01-2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 07/2022/QĐST-HNGĐ ngày 16-02-2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ph; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn CH, xã CH, huyện VB, thành phố Hải Phòng; nơi sinh sống: Thôn LTr, xã ThL, huyện VB, thành phố Hải Phòng, vắng mặt (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt);

- Bị đơn: Anh Nguyễn Kim D; nơi cư trú: Thôn CH, xã CH, huyện VB, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên hòa giải, nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Ph, trình bày:

Chị và anh Nguyễn Kim D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã CH, huyện VB, thành phố Hải Phòng vào ngày 03-3-2016. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, lối sống, không hợp nhau về tính cách, tâm sinh lý nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn cãi vã xúc phạm và không tôn trọng nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình khuyên giải nhưng không đạt kết quả, vợ chồng đã sống ly thân đến nay được 02 năm, mỗi người một nơi, không quan tâm đến nhau, cắt đứt mọi quan hệ nghĩa vụ vợ chồng. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Kim D.

Về con chung: Chị và anh D có 02 con chung là Nguyễn Thị Trà M, sinh ngày 18-5-2017 và Nguyễn Thị Ánh D, sinh ngày 16-11-2018. Theo đơn khởi kiện chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung. Tuy nhiên, sau khi nghe nguyện vọng của con chung và quan điểm của anh D cũng như điều kiện hiện tại của chị nên chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trà M còn giao cháu Ánh D cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chị và anh D tự thoả thuận, không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị và anh D tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Tại đơn đề nghị ngày 18-10-2021 và đơn đề nghị ngày 01-11-2021, bị đơn là anh Nguyễn Kim D trình bày: Về thời gian, điều kết kết hôn như nội dung chị Ph trình bày là đúng, quá trình chung chống vợ chồng có xảy ra một số mâu thuẫn. Nguyên nhân là do từ khi chị Ph đi làm xí nghiệp, gia đình đơn người, con còn nhỏ, bố anh thì già nên bữa ăn phức tạp, chị Ph không hài lòng nên đã đưa hai con về gia đình ngoại sinh sống đến nay được 9, 10 tháng, tình cảm vợ chồng mỗi ngày một xa. Tuy nhiên, anh không đồng ý ly hôn với chị Ph, anh đề nghị Toà án và chính quyền địa Ph hoà giải để vợ chồng được đoàn tụ.

Về con chung: Anh và chị Ph có 02 con chung là Nguyễn Thị Trà M, sinh ngày 18-5-2017 và Nguyễn Thị Ánh D, sinh ngày 16-11-2018. Anh D không có quan điểm gì về việc nuôi dưỡng con chung và việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có quan điểm. Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo xác định quan hệ tranh chấp về Ly hôn là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, về thẩm quyền đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn không chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung vụ án: Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử, xử cho chị Nguyễn Thị Ph được ly hôn với anh Nguyễn Kim D; về con chung: Đề nghị giao con chung là Nguyễn Thị Trà M, sinh ngày 18-5-2017 cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; giao con chung là Nguyễn Thị Ánh D, sinh ngày 16-11-2018 cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết. Về án phí: Chị Ph phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Ph xin ly hôn với anh Nguyễn Kim D có nơi cư trú tại xã CH, huyện VB, thành phố Hải Phòng. Do đó, căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng; Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là đúng thủ tục tố tụng.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn đã nhận được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng trong quá trình tố tụng đều vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, đã không chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Tại phiên tòa bị đơn vắng mặt lần thứ 2 không có lý do, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn và nguyên đơn.

- Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Ph và anh Nguyễn Kim D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã CH, huyện VB, thành phố Hải Phòng ngày 03-3-2016. Như vậy, hôn nhân này là hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hòa thuận hạnh phúc được 05 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, lối sống, không hợp nhau về tính cách, tâm sinh lý, vợ chồng không tin tưởng nhau nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, xúc phạm và không tôn trọng nhau. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình khuyên giải nhưng không có kết quả, vợ chồng đã sống ly thân, không quan tâm đến nhau, cắt đứt mọi quan hệ nghĩa vụ vợ chồng. Nay, xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị Ph xin ly hôn nhưng anh D không đồng ý ly hôn và đề nghị Toà án tiến hành hoà giải để vợ chồng đoàn tụ. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần và tại 02 phiên toà anh D đều vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, từ đó xác định được mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Ph và anh D đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử, căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Ph xin ly hôn với anh Nguyễn Kim D.

[4] Về con chung: Chị Ph và anh D có 02 con chung là Nguyễn Thị Trà M, sinh ngày 18-5-2017 và Nguyễn Thị Ánh D, sinh ngày 16-11-2018. Khi ly hôn, chị Ph đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trà M và giao cháu Ánh D cho anh D trự tiếp nuôi dưỡng. Xét thấy, chị Ph và anh D đều có việc làm và thu nhập ổn định, có đủ điều kiện đảm bảo được việc nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục con chung. Do đó, xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con chung Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các điều 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung là Nguyễn Thị Trà M cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung là Nguyễn Thị Ánh D cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con, do chị Ph và anh D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị Ph và anh D không yêu cầu nên không xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Ph phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 266 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81; 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị Ph được ly hôn với anh Nguyễn Kim D.

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thị Trà M, sinh ngày 18-5- 2017 cho chị Ph trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; giao con chung là Nguyễn Thị Ánh D, sinh ngày 16- 11-2018 cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con hai bên tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Ph phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị Ph đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0002057 ngày 06-10-2021, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Chị Ph đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Ph và anh D vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trong trường hợp bản án, được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quyết định thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 9 của Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 11/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:11/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 02/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về