Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 08/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI

BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 18/2021/TLST- HNGĐ ngày 13/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 01 tháng 3 năm 2022, Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử vụ án dân sự số 25/TB –TA ngày 07/3/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1993, trú tại thôn X, xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi.

- Bị đơn: Anh Trần Tuấn V, sinh năm 1990, trú tại xóm 1, thôn Tiên Đào, xã Bình Trung, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Các bên đương sự có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 29/7/2021 và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn Chị Trần Thị H trình bày:

Chị và Anh Trần Tuấn V tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 26/11/2018 tại UBND xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi. Trong quá trình chung sống, đến năm 2020, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh V thường xuyên ăn nhậu, thiếu trách nhiệm với vợ con, mẹ anh V chửi bới, đánh đập chị. Chị đã nhiều lần khuyên giải để đảm bảo hạnh phúc gia đình nhưng anh V vẫn không thay đổi dẫn đến ảnh hưởng tâm, sinh lý của con và gia đình chị. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 11 năm 2020 đến nay, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài nên xin ly hôn Anh Trần Tuấn V.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Trần Hà M, sinh ngày 17/10/2019, hiện đang ở với chị. Chị có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Hà M, yêu cầu anh Vcấp dưỡng nuôi con 1.500.000đồng/tháng cho đến khi cháu My đủ 18 tuổi. Tại phiên tòa, chị H không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Tại bản tự khai ngày 13/10/2021 và quá trình tố tụng, bị đơn Anh Trần Tuấn V trình bày:

Anh thống nhất với lời trình bày của Chị Trần Thị H về việc kết hôn, con chung, tài sản chung và nợ chung. Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng theo đơn khởi kiện của chị Hlà chưa đúng. Anh thừa nhận có nhậu nhưng không đến nổi bê bét như chị H trình bày. Tháng 9/2020, do có sự hiểu nhầm giữa mẹ anh và mẹ của chị H nên chị H ẵm con về xã B sinh sống cho đến nay. Anh vẫn thường xuyên về B thăm con, vẫn chu cấp tiền sinh hoạt cho vợ con. Nay chị H xin ly hôn anh, anh không đồng ý. Anh muốn vợ chồng đoàn tụ để nuôi con. Trường hợp vợ chồng ly hôn, anh đồng ý giao cháu M cho chị H nuôi dưỡng. Anh cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.500.000đồng cho đến khi cháu M đủ 18 tuổi.

Tại phiên tòa, anh V yêu cầu được nuôi dưỡng cháu My, không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Ý kiến của Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn:

Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đều thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, 71, 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu của Chị Trần Thị H được ly hôn Anh Trần Tuấn V; về con chung: Giao cháu Trần Hà M, sinh ngày 17/10/2019 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. chị H không yêu cầu anh Vcấp dưỡng nuôi con nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị H và Anh Trần Tuấn V tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã B, huyện S, tỉnh Quảng Ngãi ngày 26/11/2018 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm về chỗ ở, mâu thuẫn giữa mẹ chồng và con dâu dẫn đến hai bên gia đình xảy ra mâu thuẫn. Vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 11/2020 đến nay và không quan tâm gì đến nhau nữa. Sự việc mâu thuẫn giữa vợ chồng đã được hai bên gia đình và Tòa án đã hòa giải nhiều lần để vợ chồng đoàn tụ nhưng không thành. Xét thấy, tình trạng mâu thuẫn giữa chị H và anh V là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H về việc xin ly hôn với Anh Trần Tuấn V theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2] Về nuôi con chung: chị H và anh V đều có yêu cầu được trực tiếp nuôi con. Xét thấy hiện nay cháu Trần Hà M chưa đủ 36 tháng tuổi, đang chung sống với chị H và đảm bảo quyền lợi, cuộc sống ổn định cho con chung. Căn cứ khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị H được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng cháu Trần Hà M.

[3] Về cấp dưỡng nuôi con: chị H không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

[5] Về án phí: chị H phải nộp 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch theo quy định của pháp luật.

[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi phù hợp với nhận định trên, được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 1 Điều 235, Điều 266, Điều 267 và khoản 1 Điều 273, Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị H được ly hôn với Anh Trần Tuấn V.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Trần Hà M, sinh ngày 17/10/2019 cho Chị Trần Thị H tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: chị H không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xét.

Anh Trần Tuấn V có quyền, nghĩa vụ đi lại, thăm nom con chung không ai được cản trở. Khi cần thiết một trong hai bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung hoặc cấp dưỡng nuôi con chung.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Trần Thị H phải nộp án phí không có giá ngạch (về ly hôn) 300.000đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng chị H đã nộp theo biên lai thu tiền 0000389 ngày 13/10/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.

Các đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (14/3/2022).

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 08/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Sơn - Quảng Ngãi
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về