Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 16/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN KIẾN AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 16/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 15 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 241/2020/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 325/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 356/2021/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Lưu Quang D; ĐKNK: Tổ T, phường N, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Tổ Đ 1, phường V, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên toà, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Phạm Thị D; nơi cư trú: Tổ Đ, phường V, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn là anh Lưu Quang D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Phạm Thị D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tiên Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng vào ngày 18 tháng 10 năm 2012. Sau khi kết hôn, anh và chị D về sống chung tại Tổ Đ 1, phường V, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, vợ chồng anh thường xuyên xảy ra cãi nhau, cuộc sống vợ chồng căng thẳng, không hạnh phúc. Khoảng đầu năm 2016 do không giải quyết được mâu thuẫn, anh và chị D đã sống ly thân nhau. Chị D và con thuê nhà ở số 9 E1 thuộc Tổ Đ, phường V còn anh vẫn sống tại Tổ Đ 1, phường V. Nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn là do tính cách hai bên không hợp nhau, anh và chị D bất đồng nhau về quan điểm sống, lối sống, cách sống. Bản thân anh đã cố gắng hàn gắn quan hệ vợ chồng với mong muốn để vợ chồng đoàn tụ nhưng tình trạng ngày càng trầm trọng hơn. Đến nay anh xác định tình cảm của anh đối với chị Phạm Thị D không còn, mâu thuẫn vợ chồng đã căng thẳng và trầm trọng, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa nên anh đề nghị Toà án nhân dân quận Kiến An giải quyết cho anh được ly hôn với chị Phạm Thị D.

Về con chung: Anh và chị Phạm Thị D có 01 con chung là Lưu Quang Thế D, sinh ngày 10 tháng 01 năm 2014. Cháu D hiện đang sống chung cùng chị D. Khi ly hôn anh đồng ý để chị D nuôi con. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Toà án giải quyết về tài sản.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng: Quá trình tiến hành tố tụng của Tòa án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án: Nguyên đơn chấp hành đầy đủ các quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn chưa chấp hành đầy đủ các quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự; Thẩm phán, Thư ký phiên tòa, Hội đồng xét xử về cơ bản đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giải quyết cho anh Lưu Quang D được ly hôn với chị Phạm Thị D.

Về con chung: Giao con chung là Lưu Quang Thế D, sinh ngày 10 tháng 01 năm 2014 cho chị Phạm Thị D trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung và về tài sản chung do anh D không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết. Về án phí, buộc anh D phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền thụ lý, giải quyết vụ án: Chị Phạm Thị D là bị đơn, hiện cư trú tại Tổ dân phố Đ, phường V, quận Kiến An, thành phố Hải Phòng, vì vậy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Kiến An, thành phố Hải Phòng theo khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về việc xét xử vắng mặt đương sự: Tòa án nhân dân quận Kiến An đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa nhưng chị Phạm Thị D không thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt chị Phạm Thị D. Anh Lưu Quang D đã được Tòa án triệu tập lần 2 nhưng anh D vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Lưu Quang D.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Lưu Quang D và chị Phạm Thị D kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Tiên Thắng, huyện Tiên Lãng, thành phố Hải Phòng ngày 18 tháng 10 năm 2012. Đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Căn cứ vào lời khai của anh Lưu Quang D và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, có đủ cơ sở xác định anh Lưu Quang D và chị Phạm Thị D trong quá trình chung sống thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau nữa. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, lối sống, tính cách không hợp nhau. Như vậy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh Lưu Quang D và chị Phạm Thị D đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của anh Lưu Quang D là phù hợp pháp luật và thực tế vụ kiện, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về con chung: Anh Lưu Quang D và chị Phạm Thị D có 01 con chung là Lưu Quang Thế D, sinh ngày 10 tháng 01 năm 2014. Tài liệu xác minh và lời khai của anh Lưu Quang D thể hiện: Cháu D hiện đang sống chung cùng với chị D. Để đảm bảo cho cháu Lưu Quang Thế D có điều kiện chăm sóc và phát triển một cách tốt nhất và cũng là phù hợp với nguyện vọng của cháu, Hội đồng xét xử quyết định giao con chung là Lưu Quang Thế D cho chị Phạm Thị D trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi theo đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Kiến An tại phiên tòa là phù hợp pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, do anh D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Anh Lưu Quang D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết về tài sản.

[6] Về án phí: Anh Lưu Quang D phải nộp 300.000 đồng án phí sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 271, Điều 273, Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho anh Lưu Quang D ly hôn chị Phạm Thị D.

2. Về con chung: Giao con chung là Lưu Quang Thế D, sinh ngày 10 tháng 01 năm 2014 cho chị Phạm Thị D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, do anh D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung: Anh Lưu Quang D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Anh Lưu Quang D phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015144 ngày 16 tháng 11 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Kiến An, thành phố Hải Phòng, anh Lưu Quang D đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Anh Lưu Quang D và chị Phạm Thị D có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

242
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 16/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Kiến An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về