Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 08/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 24 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 265/2021/TLST- HNGĐ ngày 13 tháng 10 năm 2021, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 01/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 22/2022/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị Kim H, sinh năm 1986; (có mặt) Địa chỉ: 151D, tổ 4, ấp 3, xã V, huyện V, tỉnh Đồng Nai.

2. Bị đơn: Ông Lê Văn L, sinh năm 1979; (vắng mặt) Địa chỉ: 151D, tổ 4, ấp 3, xã V, huyện V, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 01/10/2021 và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn bà Hoàng Thị Kim H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà H kết hôn với ông Lê Văn L vào năm 2006, hôn nhân giữa hai bên là tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Gia Tân 2, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai theo Giấy chứng nhận kết hôn số 18, quyển số 01/2006, cấp ngày 12/5/2006.

Quá trình chung sống thời gian đầu có hạnh phúc, nhưng sau đó vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên do là không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống. Ông L thường xuyên uống rượu, đánh chửi và đuổi bà ra khỏi nhà trong lúc đêm tối. Vợ chồng cũng đã nhiều lần tìm cách hàn gắn nhưng không đạt được. Từ tháng 6/2021 cho đến nay vợ chồng đã sống ly thân với nhau. Nay tình cảm vợ chồng đã không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông L.

Về con chung: Có 03 cháu tên là Lê H, sinh ngày 09/8/2006; Lê Nhật V, sinh ngày 11/11/2011 và Lê Ngọc A, sinh ngày 25/01/2016. Khi ly hôn, bà có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê H, còn cháu Lê Nhật V và Lê Ngọc A giao cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng; tạm thời không bên nào phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản chung: Bà H khai tự thỏa thuận với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Bà H khai không có.

* Bị đơn ông Lê Văn L trong qua trình tham gia tố tụng: Ngày 19/10/2021, ông L có mặt làm việc tại Tòa án nhưng không làm bản tự khai và chứng kiến ghi nhận việc con chung cháu Lê H ở với mẹ và cháu Lê Nhật V có nguyện vọng ở với ông, rồi ông L bỏ ra về. Sau đó trong quá trình tham gia tố tụng đã được Tòa án tiến hành triệu tập, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự để làm việc và tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, nhưng ông L vắng mặt không có lý do nên không nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của nguyên đơn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, yêu cầu phản tố (nếu có).

* Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa: Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án là đúng quy định pháp luật. Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, phía nguyên đơn chấp hành đúng theo quy định của pháp luật, bị đơn không chấp hành đúng theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Hoàng Thị Kim H, cho bà H được ly hôn với ông Lê Văn L; giao con chung cháu Lê H, sinh ngày 09/8/2006 cho bà H nuôi dưỡng, giao cháu Lê Nhật V, sinh ngày 11/11/2011 và Lê Ngọc A, sinh ngày 25/01/2016 cho ông L nuôi dưỡng, tạm thời không bên nào phải cấp dưỡng cho con; về tài sản chung, nợ chung đề nghị Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Hoàng Thị Kim H có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” với ông Lê Văn L, nơi cư trú tại nhà số 151D, tổ 4, ấp 3, xã V, huyện V, tỉnh Đồng Nai. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật của vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Bị đơn ông Lê Văn L không có yêu cầu phản tố và đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, lần thứ hai để tham gia phiên tòa, nhưng ông L vắng mặt không có lý do. Tòa án đã thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ số 03/TB-TA ngày 10/01/2022, nhưng ông L cũng không phản đối. Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là đúng quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung tranh chấp: Bà Hoàng Thị Kim H và ông Lê Văn L tự nguyện kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Gia Tân 2, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 18, quyển số 01/2006, cấp ngày 12/5/2006; căn cứ vào các Điều 11, 12, 13 và 14 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, hôn nhân giữa bà H và ông L được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu ly hôn của bà H là có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ: Vợ chồng phải có nghĩa vụ thương yêu, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng xây dựng gia đình hạnh phúc, thực hiện các công việc trong gia đình; tuy nhiên, trong thời gian chung sống vợ chồng bà H, ông L đã phát sinh sinh mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, nguyên nhân là vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không còn hợp nhau về tính cách. Từ tháng 6/2021 cho đến nay hai người đã sống ly thân, nên không thể hàn gắn được tình cảm vợ chồng. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự hàn gắn, nhưng ông L không hợp tác, chứng tỏ ông L bỏ mặc quan hệ hôn nhân giữa hai bên, còn bà H vẫn cương quyết yêu cầu được ly hôn. Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp, kết quả xác minh cho thấy tình trạng hôn nhân giữa bà H, ông L có nhiều mâu thuẫn, cả hai đã không còn sống chung với nhau. Hội đồng xét xử thấy rằng hôn nhân giữa bà H và ông L đã lâm vào trình trạng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, yêu cầu ly hôn của bà H là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Giữa bà H và ông L có 03 con chung là Lê H, sinh ngày 09/8/2006; Lê Nhật V, sinh ngày 11/11/2011 và Lê Ngọc A, sinh ngày 25/01/2016. Cháu H có nguyện vọng ở với bà H, cháu V có nguyện vọng ở với ông L. Khi ly hôn, bà H có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu H, còn cháu V và A giao cho ông L trực tiếp nuôi dưỡng; ông L cũng thống nhất về việc nuôi con chung và phù hợp với kết quả xác minh là cháu V và A đang sống cùng ông L. Do vậy căn cứ theo qui định tại các Điều 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình, giao cháu Lê H cho bà H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục; giao cháu Lê Nhật V và Lê Ngọc A cho ông L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục; về nghĩa vụ cấp dưỡng tạm thời không bên nào phải cấp dưỡng; bà H và ông L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà H khai tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết và không có nợ chung, còn ông L vắng mặt nên không có ý kiến trình bày, vì vậy Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[3] Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Cửu đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Hoàng Thị Kim H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào các Điều 11, 12, 13, 14, 89 và 91 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000; khoản 1 Điều 56, Điều 57, 81, 82, 83, 84 và 131 của Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị Kim H về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Hoàng Thị Kim H được ly hôn với ông Lê Văn L.

- Về con chung: Giao cháu Lê H, sinh ngày 09/8/2006 cho bà Hoàng Thị Kim H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục; giao cháu Lê Nhật V, sinh ngày 11/11/2011 và Lê Ngọc A, sinh ngày 25/01/2016 cho ông Lê Văn L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục; tạm thời không bên nào phải cấp dưỡng cho con.

Bà H và ông L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Khi cần thiết vì lợi ích của con, các bên có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng cho con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà H khai tài sản chung hai bên tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết và không có nợ chung, còn ông Lê Văn L vắng mặt, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

2. Về án phí: Bà Hoàng Thị Kim H phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003751 ngày 13/10/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Cửu.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; bị đơn không có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 08/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Cửu - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về