Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 08/2020/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH - TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 08/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/02/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 27 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý: 468/2019/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2019, về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 02 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Mai Thị Ngọc O, sinh năm 1997.

Địa chỉ: Tổ A, khu phố B, thị trấn C, huyện M, tỉnh Bình Thuận.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn T, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Số D, đường số E, thôn F, xã G, huyện M, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa vắng mặt nguyên đơn và bị đơn, đã có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản về việc không tiến hành hòa giải được và các tài liệu khác có trong hồ sơ, nguyên đơn chị Mai Thị Ngọc O trình bày: Chị và anh Lê Văn T tự nguyện tìm hiểu và đi đến hôn nhân. Anh chị có đăng ký kết hôn tại UBND xã G ngày 13/10/2014, đăng ký kết hôn số 88, quyển số 01/2014. Quá trình chung sống thì giữa anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn do anh T thường xuyên chơi cờ bạc, nghiện ma túy, gây gỗ đánh đập vợ con, không lo làm ăn. Anh chị đã ly thân 02 năm nay. Chị xác định không còn tình cảm với anh Lê Văn T, mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn vợ chồng thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Lê Bảo Ch, sinh ngày 28/5/2015. Chị yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Ch và không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung thì không tranh chấp.

Tại biên bản lấy lời khai của đương sự ngày 06/02/2020, anh Lê Văn T đã trình bày:

- Anh có hộ khẩu thường trú tại số D, đường số E, thôn F, xã G, huyện M, tỉnh Bình Thuận.

- Anh và chị O có đăng ký kết hôn tại UBND xã G ngày 13/10/2014.

- Trước đây, anh có sử dụng ma túy làm cho vợ chồng thường xuyên cải vã, anh có đánh đập chị O. Sau khi anh đi cai nghiện về thì tình cảm của chị O dành cho anh đã phai nhạt. Anh chị đã ly thân khoảng 02 năm nay.

- Chị Ông yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý ly hôn.

- Anh chị có 01 con chung là cháu Lê Bảo Ch, sinh ngày 28/5/2015. Anh đồng ý giao cho chị O được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Ch và anh không phải cấp dưỡng nuôi con.

Tóa án đã tiến hành hòa giải để các đương sự tự thỏa thuận với nhau về các vấn đề có tranh chấp trong vụ án nhưng bị đơn không tham gia nên không tiến hành hòa giải được.

Ý kiến của kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của thẩm phán, Hội đồng xét xử, của các đương sự và phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Thẩm phán đã chấp hành đúng pháp luật.

- Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật - Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật.

- Bị đơn không chấp hành đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn. Giải quyết cho chị Mai Thị Ngọc O ly hôn với anh Lê Văn T. Về tranh chấp nuôi con: Cần ghi nhận sự tự nguyện của các đương sự, giao cháu Ch cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Tòa án nhân dân huyện Đức Linh đã thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện của nguyên đơn là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn và bị đơn đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn và bị đơn.

[3] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, xác định quan hệ pháp luật cần giải quyết là ly hôn, tranh chấp nuôi con.

[4] Nội dung vụ án:

[a] Về hôn nhân: Chị Mai Thị Ngọc O và anh Lê Văn T tự nguyện tìm hiểu và tiến tới hôn nhân. Anh chị có đăng ký kết hôn tại UBND xã G ngày 13/10/2014, đăng ký kết hôn số 88, quyển số 01/2014. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, quá trình chung sống vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn nên chị O yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Qua lời khai của nguyên đơn và bị đơn thấy rằng mâu thuẫn vợ chồng anh chị phát sinh là anh T sử dụng ma túy làm cho vợ chồng thường xuyên cải vã, anh T còn đánh đập cho O. Mặt khác, Tòa án đã thông báo cho anh T lên Tòa án tham gia hòa giải nhưng anh không tham gia, chứng tỏ anh T không có ý định muốn níu kéo cuộc hôn nhân này. Thấy rằng, mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã thực sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên nghĩ cần xử cho chị O ly hôn anh T là phù hợp.

[b] Về con chung:

Anh chị có 01 con chung là cháu Lê Bảo Ch, sinh ngày 28/5/2015. Thấy rằng, cháu Ch hiện còn nhỏ tuổi, rất cần sử quan tâm, chăm sóc từ người mẹ và anh chị cũng thống nhất giao cháu Ch cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, xét giao cháu Ch cho chị O trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị O không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong bản án này .

[c] Về tài sản chung, nợ chung: Chị O không yêu cầu nên không phải xem xét, giải quyết trong bản án này.

[5] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Chị O là người yêu cầu ly hôn nên chị phải chịu toàn bộ án phí DSST về ly hôn.

[6] Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án là có căn cứ và phù hợp với nội dung vụ án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Về hôn nhân: Chị Mai Thị Ngọc O ly hôn anh Lê Văn T.

- Về con chung: Chị Mai Thị Ngọc O được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Lê Bảo Ch, sinh ngày 28/5/2015. Anh Lê Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

2. Về án phí DSST: Chị Mai Thị Ngọc O phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, nhưng được tính trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) do chị O đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003263 ngày 18 tháng 12 năm 2019. Chị O đã nộp đủ án phí DSST.

3. Về quyền kháng cáo: Báo cho nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án để Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

4. Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

50
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 08/2020/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về