Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 06/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/03/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 10 tháng 3 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” thụ lý số 331/2021/TLST-HNGĐ, ngày 02 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bạch Văn N, địa chỉ: XX, ấp H, xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Long.

Bị đơn: Bùi Thị Huyền T, địa chỉ: ấp B, xã Đ, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 21/9/2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn ông Bạch Văn N trình bày: Giữa nguyên đơn với bị đơn là bà Bùi Thị Huyền T kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện năm 2009, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện L, tỉnh Vĩnh Long theo giấy chứng nhận kết hôn cấp ngày 05/9/2011. Vợ chồng có 02 người con chung là Bạch Thị Ngọc D sinh ngày 12/11/2011 và Bạch Dư H sinh ngày 28/5/2015. Thời gian sau ngày cưới vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn do không cùng quan điểm, dần dần vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau và sống ly thân, đã nhiều lần cố gắng khắc phục mâu thuẫn để tìm cơ hội hàn gắn nhưng không có kết quả, nên ông N yêu cầu ly hôn bà T; về con chung ông N yêu cầu được trực tiếp nuôi cả 02 cháu đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu bà T cấp dưỡng; về tài sản chung và nợ ông N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong bản tự khai ngày 19/01/2022, bị đơn bà Bùi Thị Huyền T trình bày: Bà T thừa nhận toàn bộ phần trình bày của ông N về thời điểm cưới nhau, con chung của hai người là đúng; bà T cho biết thời gian gần đây vợ chồng không cùng quan điểm nên thường cãi nhau và hiện tại khó có thể hàn gắn vì nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, vì vậy trước yêu cầu khởi kiện của ông N thì bà T cũng đồng ý ly hôn, đồng ý giao 02 con chung cho ông N nuôi, bà T không cấp dưỡng; về tài sản chung và nợ, bà T cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà T có đơn xin vắng mặt tất cả các phiên họp hòa giải, phiên tòa vì bận việc làm ăn ở xa.

Ý kiến của Viện Kiểm sát: Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nhận xét về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án nhìn chung đều thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn và áp dụng các Điều 81 và 82 của Luật Hôn nhân và gia đình giao 02 con chung chưa thành niên cho ông N trực tiếp nuôi, ghi nhận sự tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng của ông N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Tại phiên tòa, vắng mặt bà Bùi Thị Huyền T là bị đơn trong vụ án, nhưng bà T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án, theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét về quan hệ hôn nhân: Ông N và bà T xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật, nên hôn nhân của ông bà là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, ông N nhận thấy gần đây vợ chồng có phát sinh nhiều mâu thuẫn làm cho cuộc sống chung không còn hạnh phúc, đang sống ly thân từ năm 2018 đến nay, nên ông N yêu cầu ly hôn bà T. Hội đồng xét xử thấy rằng, quan hệ hôn nhân phải được xây dựng trên cơ sở tự nguyện và vợ chồng phải luôn quan tâm chăm sóc lẫn nhau, nay ông N kiên quyết yêu cầu ly hôn, bà T cũng chấp nhận việc ly hôn, xét thấy mục đích hôn nhân của ông bà không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên Hội đồng xét xử cần áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông N.

[3] Về con chung: Ông N và bà T có 02 người con chung chưa thành niên hiện đang sống với ông N, ông N có yêu cầu được trực tiếp nuôi và không yêu cầu bà T cấp dưỡng. Xét thấy 02 cháu Bạch Thị Ngọc D và Bạch Dư H từ trước đến nay sống tại gia đình cùng với ông N, khi được hỏi về nguyện vọng thì cháu D (trên 07 tuổi) cho biết muốn được ở với cha (Bạch Văn N) nếu cha mẹ phải ly hôn. Bà T thì không có ý kiến dành quyền nuôi con, vì vậy Hội đồng xét xử thấy cần giao 02 cháu Bạch Thị Ngọc D và Bạch Dư H cho ông N để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi các cháu D và H đủ 18 tuổi là phù hợp. Bà T không trực tiếp nuôi con vẫn có quyền và nghĩa vụ thăm nom con. Về vấn đề cấp dưỡng, trên cơ sở tự nguyện của ông N không yêu cầu cấp dưỡng, Hội đồng xét xử ghi nhận và không buộc bà T phải cấp dưỡng nuôi con chung.

[4] Về tài sản chung và nợ: Ông N không yêu cầu Tòa án giải quyết, bà T không có yêu cầu phản tố, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Về án phí: Nguyên đơn đồng ý chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[7] Về quyền kháng cáo của đương sự được thực hiện theo quy định tại các Điều 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 228, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 58, 81, 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trong vụ án ly hôn và được giải quyết như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Ông Bạch Văn N được ly hôn bà Bùi Thị Huyền T.

- Về con chung: Giao 02 cháu Bạch Thị Ngọc D sinh ngày 12/11/2011 và Bạch Dư H sinh ngày 28/5/2015 cho ông Bạch Văn N để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu D và H đủ 18 tuổi; bà Bùi Thị Huyền T không phải cấp dưỡng nuôi con chung do ông N tự nguyện không yêu cầu được ghi nhận. Dành quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung cho bà T, không ai được cản trở.

- Về tài sản chung và nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

2. Án phí dân sự sơ thẩm: 300.000 (ba trăm nghìn) đồng ông Bạch Văn N chịu nộp, được khấu trừ hết vào số tiền tạm ứng án phí ông N đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001442, ngày 01/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

3. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 06/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:06/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về