TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 90/2021/HNGĐ-ST NGÀY 21/06/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 21 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 226/2020/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 47/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19/4/2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 54/2021/QĐ-ST ngày 07/5/2021 giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1994.
Địa chỉ: Thôn M, xã C, huyện C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm 1985.
Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn M, xã C, huyện C, tỉnh Hải Dương.
Hiện đang lao động tại: Nhật Bản. Vắng mặt.
3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
Bà Hoàng Thị Đ, sinh năm 1965.
HKTT: Thôn M, xã C, huyện C, tỉnh Hải Dương .
Hiện cư trú tại: Số nhà, ngõ , đường Â, phường N, Quận T, Thành phố.
Hà Nội (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai của nguyên đơn chị Nguyễn Thị T trình bày: Chị và anh N tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C, huyện C, tỉnh Hải Dương, ngày 19/11/2012. Sau ngày cưới vợ chồng sống hạnh phúc đến tháng 8/2013 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng không hòa hợp nên thường xuyên cãi nhau, anh N cũng thường đánh chị. Đến tháng 9/2013 chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay không ai quan tâm tới ai. Tháng 3/2014 chị đi Đài Loan (Trung Quốc) lao động, đến tháng 2/2020 chị về Việt Nam, còn anh Năng đi lao động ở Nhật Bản. Hai bên từ lâu không còn liên lạc với nhau, nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh N theo quy định của pháp luật.
Về con chung : Chị và anh N có 1 con chung là Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 15/6/2013. Từ khi con chung được 4 tháng tuổi, anh N và bà nội là Hoàng Thị Đ đã giành việc nuôi con, nên chị không được nuôi con từ nhỏ. Nếu con chung có nguyện vọng được ở với chị, chị đồng ý nuôi con, tự nguyện không yêu cầu anh Năng phải cấp dưỡng cho con. Nếu con chung có nguyện vọng được ở với bố và bà nội, chị cũng đồng ý, trong thời gian anh Năng không ở Việt Nam chị đồng ý để cháu L ở với bà nội là bà Hoàng Thị Đ.
Về tài sản chung, nợ chung : Không có, nên chị không đề nghị Tòa án giải quyết.
Tại biên bản xác minh ở Ủy ban nhân dân xã C, huyện C thể hiện: Anh Năng, chị T là người địa phương, hiện tại anh Năng lao động ở Nhật Bản. Chị T có thời gian đi nước ngoài lao động, mới về Việt Nam từ đầu năm 2020. Trong cuộc sống hàng ngày, vợ chồng không có hạnh phúc, nguyên nhân mâu thuẫn do từ phía hai bên bố mẹ dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn. Chị T đã từng làm đơn ly hôn gửi đến Tòa án nhân dân huyện C, nhưng do anh N không ở Việt Nam nên chưa được giải quyết. Hiện nay, mẹ đẻ anh Năng là bà Phạm Thị Đ đang nuôi con chung của anh Năng, chị T và sinh sống tại Thành phố Hà Nội, thỉnh thoảng mới về địa phương. Nay chị T có đơn xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Lời khai của bà Nguyễn Thị Th là mẹ đẻ chị T xác định: Mâu thuẫn giữa anh N, chị T do không hòa hợp trong cuộc sống vợ chồng và ở gia đình chồng chị T dẫn, đến mâu thuẫn giữa hai bên gia đình thông gia. Vợ chồng sống không hạnh phúc, ly thân nhau từ lâu không ai quan tâm tới ai. Sau khi sinh con được một thời gian ngắn chị T đã về gia đình mẹ đẻ ở và đi nước ngoài lao động đến năm 2020 thì về Việt Nam. Để ổn định cuộc sống của các bên, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tòa án đã đến số nhà, ngõ , đường Â, phường N, quận T, thành phố Hà nội để lấy lời khai của bà Hoàng Thị Đ. Bà Đ xác định hiện tại bà đang nuôi cháu Nguyễn Hoàng L là con chung của chị T và anh N. Bà có biết việc chị T làm đơn xin ly hôn anh N, mâu thuẫn giữa chị T và anh Năng xảy ra từ lâu, cháu L ở với bà từ khi được 2 tháng tuổi, chị Tâm không quan tâm đến con. Khi chị T ở nước ngoài, anh N từng 3 lần nộp đơn ly hôn đến Tòa án nhưng đều bị trả lại vì không cung cấp được địa chỉ của chị T. Bà đã trao đổi với anh Năng nội dung chị T có đơn ly hôn, quan điểm của anh Năng cho rằng trước anh từng làm đơn ly hôn nhưng chị Tâm không hợp tác, nên nay chị Tâm có đơn ly hôn, anh N không có quan điểm gì. Bà Đ cung cấp cho Tòa án những tài liệu chứng minh việc anh N làm đơn ly hôn chị T. Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng cho bà Đ, có lần bà Đ nhận các văn bản tố tụng nhưng không ký nhận biên bản tống đạt của Tòa án, có lần từ chối nhận văn bản tố tụng. Tòa án ghi lời khai của bà Đ nhưng bà Đ không ký biên bản ghi lời khai do Tòa án lập.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã đến Trường tiểu học N, phường N, quận T, thành phố Hà Nội nơi cháu L đang học tập để hỏi nguyện vọng của cháu về việc ở với ai trong trường hợp bố mẹ cháu ly hôn. Tuy nhiên do bà Hoàng Thị Đ không đồng ý để Tòa án tiếp xúc, gặp gỡ cháu L nên Trường tiểu học N từ chối để Tòa án gặp gỡ, tiếp xúc, lấy lấy lời. Do vậy, Tòa án không làm rõ được nguyện vọng của cháu Long trong trường hợp bố mẹ ly hôn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (HĐXX), Thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (viết tắt BLTTDS), bị đơn thực hiện chưa đúng quy định của BLTTDS. Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị Tâm được ly hôn anh Năng.Về con chung: Tiếp tục giao con chung là Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 15/6/2013 cho anh N chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong thời gian anh Năng không có mặt tại Việt Nam, tạm giao cháu L cho bà Đ chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, HĐXX nhận định:
[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T khởi kiện bị đơn anh Nguyễn Văn N có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh tại thôn M, xã C, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, hiện đang lao động tại Nhật Bản nhưng không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Thông qua gia đình anh Năng đã biết việc chị T có đơn xin ly hôn, tuy nhiên anh Năng không có quan điểm gửi về Tòa án. Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng tại nơi cư trú cuối cùng của anh N theo quy định của pháp luật. Quá trình Tòa án xác minh thể hiện, bà Hoàng Thị Đ là mẹ đẻ của anh Năng đang chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hoàng L là con chung của anh Năng, chị T. Do vậy, Tòa án xác định bà Đ là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và lấy lời khai, tống đạt các văn bản tố tụng. Tuy nhiên bà Đ không ký vào biên bản. Tòa án đã lập biên bản và niêm yết tại nơi ở của bà Đ theo quy định của pháp luật. Đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai, nhưng bà Đ, anh N vẫn vắng mặt. Chị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Điều 227 và khoản 1 Điều 228 BLTTDS, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn N kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã C, huyện C, tỉnh Hải Dương, ngày 19/11/2012 nên là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do không hòa hợp trong cuộc sống, vợ chồng thường cãi nhau. Chị T sinh con được khoảng 2 tháng thì đã về nhà bố mẹ đẻ ở. Từ đó vợ chồng sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Một thời gian sau chị T đi nước ngoài, ở Việt Nam anh N đã nhiều lần làm đơn ly hôn chị T, nhưng do không cung cấp được địa chỉ của chị T nên, Tòa án chưa giải quyết. Nay chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn, đối với anh Năng có biết việc chị Tâm làm đơn ly hôn, nhưng anh không thể hiện quan điểm, ý kiến. Xét thực tế, mâu thuẫn giữa chị Tâm, anh N đã được gia đình hai bên và chính quyền địa phương xác định. HĐXX xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh N đã trầm trọng, vợ chồng sống ly thân đã lâu, không ai quan tâm tới ai, cuộc sống chung vợ chồng không còn tồn tại, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị T ly hôn anh N là phù hợp với quy định tại Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị T và anh Nguyễn Văn N có một con chung là Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 15/6/2013. Hiện đang sinh sống, học tập tại Hà Nội và ở với bà Hoàng Thị Đ. Quá trình làm việc bà Đ không hợp tác, gây khó khăn cho việc Tòa án tiếp cận, hỏi ý kiến, nguyện vọng của cháu Long nên Tòa án không ghi được lời khai của cháu. Xét thực tế cháu L ở với bố và bà nội từ nhỏ, được bà nội chăm sóc, nuôi dưỡng. Hiện tại cháu L được học tập, phát triển ở môi trường tốt. Do vậy, để ổn định cuộc sống của con chung cần giao cho anh N chăm sóc, nuôi dưỡng con là phù hợp. Trong thời gian anh N không ở Việt Nam, tạm giao cháu L cho bà Hoàng Thị Đ là bà nội nuôi dưỡng, chăm sóc cháu. Do anh N không có quan điểm gì về việc cấp dưỡng cho con do vậy HĐXX không xem xét giải quyết. Sau này anh Năng có đơn yêu cầu gửi cho Tòa án có thẩm quyền giải quyết về việc cấp dưỡng cho con thì sẽ được xem xét giải quyết bằng vụ án khác. Trong trường hợp có căn cứ cho rằng anh Năng nuôi con không đảm bảo, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của con chung thì chị T có quyền làm đơn khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền để giải quyết yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T không yêu cầu, anh N không có quan điểm giải quyết về tài sản nên HĐXX không xem xét giải quyết. Các đương sự có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng sau khi ly hôn, theo quy định của pháp luật (nếu có).
[3] Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về hôn nhân gia đình), theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, Điểm a, Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì những lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng các Điều 51; 56; 81; 82 Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a, Khoản 5, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T ly hôn anh Nguyễn Văn N.
2.Về con chung: Giao cho anh Nguyễn Văn N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 15/6/2013 cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi).
Tạm giao con chung là Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 15/6/2013 cho bà Hoàng Thị Đ chăm sóc, nuôi dưỡng trong thời gian anh N không có mặt tại địa phương.
Không ai được cản trở chị Nguyễn Thị T thực hiện quyền, nghĩa vụ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (Hôn nhân và gia đình). Đối trừ số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí do bà Luân Thị N nộp thay theo biên lai thu số AA/2018/0004786 ngày 19/11/2020 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.
4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị T, bà Hoàng Thị Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Anh Nguyễn Văn N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn số 90/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 90/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 21/06/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về