Bản án về ly hôn số 34/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 34/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/03/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 22 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân gia đình thụ lý số 153/2021/LHST-HNGĐ ngày 09/11/2021 về việc “Ly hôn”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 252/2021/QĐXX-ST ngày 20 tháng 12 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 26/QĐST ngày 02/3/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hải H, sinh năm 1984; nơi đăng ký hôn khẩu và chỗ ở: Thôn X, xã N, huyện S, thành phố Hà Nội, có mặt.

Bị đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1991. Số CMTND: 012347abc; Ngày cấp: 22/12/2008; Nơi cấp: Công an Hà Nội. nơi đăng ký hộ khẩu: Thôn X, xã N, huyện S, thành phố Hà Nội; chỗ ở hiện nay: Hirosima ken, Nhật Bản, vắng mặt.

Người làm chứng

- Người đại diện cho bị đơn: Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1969; chỗ ở: Xóm 11 thôn L, xã N, huyện S, thành phố Hà Nội; quan hệ với chi T: Là mẹ đẻ, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn anh Nguyễn Hải H trình bày: Tôi và chị Nguyễn Thị T kết hôn có tìm hiểu, tự nguyện và đăng ký kết hôn ngày 04/12/2009 tại UBND xã N, huyện S, thành phố Hà Nội. Vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2018 thì chị T đi du học tại Nhật đến nay không về. Từ đó tình cảm vợ chồng không được như trước. Vợ chồng sống xa nhau nên tình cảm nhạt dần, mục đích hôn nhân không đạt được. Nay tôi xác định tình cảm không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho tôi được ly hôn chị T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Thảo Vy, sinh ngày 31/01/2011; hiện cháu đang ở với bố và học lớp 5B trường Tiểu học NS. Sau ly hôn tôi có nguyện vọng tiếp tục được nuôi dưỡng cháu Vy và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và vay nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Chị Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa. Thông qua mẹ đẻ của chị T là bà Nguyễn Thị Y; Tòa án đã gửi thông báo thụ lý, thông báo các buổi hòa giải và giấy triệu tập đến phiên tòa xét xử. Bà Y cam đoan và cho biết, thường xuyên liên hệ với chị T bằng điện thoại tại Nhật Bản, bà đã gọi điện báo cho chị T về việc Tòa án Thụ lý vụ án cũng như các lịch làm việc của Tòa án. Qua điện thoại bà Yên được biết chị T đồng ý ly hôn với anh Nguyễn Hải H và đồng ý giao con chung Nguyễn Thảo Vy, sinh ngày 31/01/2011 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn. Tuy nhiên, do dịch bệnh nên chị T không về Việt Nam được và cũng không gửi ý kiến về được. Về địa chỉ của chị T gia đình không có nên không cung cấp được cho Tòa án vì chỉ liên lạc với chị T qua điện thoại.

Tại phiên tòa:

Bà Y và anh Nguyễn Hải H giữ nguyên ý kiến như đã trình bày. Chị T vắng mặt tại phiên tòa nhưng anh H không biết địa chỉ của chị T ở Nhật Bản, gia đình chị T cũng không có địa chỉ hiện nay của chị T để cung cấp cho Tòa án được.

Đại diện VKSND thành phố Hà Nội tham gia tại phiên tòa, phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự của Thẩm phán, Hội đồng xét xử sơ thẩm và việc tuân theo pháp luật của các đương sự; đồng thời đề xuất hướng giải quyết vụ án như sau:

Việc thụ lý vụ án của Tòa án là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã thực hiện việc giao thông báo của Tòa án cho các đương sự, tiến hành các bước tố tụng đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về nội dung: Anh Nguyễn Hải H và chị Nguyễn Thị T kết hôn hợp pháp, có 01 con chung là Nguyễn Thảo Vy, sinh ngày 12/5/2017. Nay anh chị cùng muốn ly hôn, con chung sau ly hôn anh chị cùng thống nhất để anh H trực tiếp nuôi dưỡng và tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con của chị T. Mặc dù chị T không có lời khai nhưng thông qua mẹ đẻ của chị, thì chị T cũng mong muốn được ly hôn nên đề nghị Tòa án chấp nhận đơn xin ly hôn của anh H và giao con chung cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiểm của kiểm sát viên Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Hải H, xin ly hôn với chị Nguyễn Thị T do chị T đang học tập và làm việc tại Nhật Bản; do vậy, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý giải quyết theo thẩm quyền quy định tại điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự.

Chị Nguyễn Thị T vắng mặt tạị phiên tòa nhưng thông qua điện thoại chị nhắn nhủ mẹ đẻ của chị là bà Nguyễn Thị Y, có mặt nên căn cứ Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị T.

[2] Về nội dung: Anh Nguyễn Hải H cùng chị Nguyễn Thị T tự nguyện xây dựng gia đình và có đăng ký đăng ký kết hôn ngày 04/12/2009 tại UBND xã N, huyện S, thành phố Hà Nội. Sau khi kết hôn anh chị sống hạnh phúc đến năm 2018 thì chị T đi lao động và học tập tại Nhật Bản nên anh chị thường xuyên sống xa nhau nên dẫn đến tình cảm nhạt dần. Mặt khác, do xa cách anh chị đã không còn tin tưởng vào nhau nên đã phát sinh ra các mâu thuẫn. Mâu thuẫn trầm trọng nên 02 năm qua anh chị không còn liên lạc và quan tâm đến nhau. Nay anh H xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Chị T không về Việt Nam được nhưng thông qua mẹ đẻ của chị thì chị cũng đồng ý ly hôn.

Xét thấy, hôn nhân của 02 anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, yêu cầu xin ly hôn của 02 anh chị là H toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định tại Điều 55, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, nên được Tòa chấp nhận.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Thảo Vy, sinh ngày 31/01/2011, hiện cháu đang ở với anh H. Sau ly hôn anh H có nguyện vọng tiếp tục được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị T phải đóng tiền cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy nguyện vọng trên của anh H là phù hợp nên được chấp nhận.

Về tài sản chung và công nợ chung: Anh H xác định không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện chị T vắng mặt và bà Y cũng cho biết anh chị không có tài sản chung. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho chị T khi trở về, thì Tòa vẫn giành cho chị T quyền khởi kiện về tài sản chung trong một vụ án khác nếu chị có yêu cầu.

Về án phí: Anh H phải chịu 300.000 án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 37 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ Điều 55, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về chế độ án phí, lệ phí Tòa án.

Xử Chấp nhận đơn xin ly hôn của anh Nguyễn Hải H đối với chị Nguyễn Thị T.

1. Về tình cảm: Anh Nguyễn Hải H được ly hôn chị Nguyễn Thị T.

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Thảo Vy, sinh ngày 31/01/2011 cho anh H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung đến tuổi trưởng thành (Đủ 18 tuổi) hoặc có sự thay đổi khác. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con của chị T đến khi các bên có yêu cầu hoặc có sự thay đổi khác.

Chị T có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được ngăn cản.

3. Về tài sản chung, công nợ chung: Anh H xác định không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Hiện chị T vắng mặt và bà Yên cũng cho biết anh chị không có tài sản chung. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi cho chị T khi trở về, thì Tòa vẫn giành cho chị T quyền khởi kiện về tài sản chung trong một vụ án khác nếu chị có yêu cầu.

Về án phí: Anh Nguyễn Hải H phải nộp 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm. Số tiền trên được trừ vào số tiền 300.000 đồng mà anh H đã nộp tạm ứng án phí tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội, theo biên lai thu số 0000385 ngày 05/11/ 2021.

Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự có mặt (Chị T vắng mặt nhưng mẹ đẻ của chị là bà Nguyễn Thị Y, có mặt), có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn số 34/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:34/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về