Bản án về ly hôn, nuôi con số 64/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HẢI, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 64/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/05/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 26 tháng 5 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Hải xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 77/2022/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2022 về việc “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2022/QĐXX-HNGĐ ngày 18 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Tú C, sinh năm 1985. Địa chỉ: Ấp HV, xã AT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

Bị đơn: Anh Trần Thái N, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Ấp CT, xã ĐT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu.

(chị C vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh N vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 14/02/2022, trong quá trình tố tụng chị Nguyễn Tú C trình bày:

Về hôn nhân: Chị với anh N chung sống vào năm 2016 trên tinh thần tự nguyện, được cha mẹ tổ chức đám theo phong tục tại địa phương và đến Ủy ban nhân dân xã AT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu đăng ký kết hôn ngày 12/4/2017.

Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, có 02 người con chung. Tuy nhiên, gần đây vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn, cãi nhau, cuộc sống luôn căng thẳng không hạnh phúc. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là vợ chồng không cùng quan điểm, mỗi người có suy nghĩ, cách sống khác nhau. Vợ chồng sống ly thân 04 tháng, trong khoảng thời gian sống ly thân, chị và anh N không gặp lại để hòa giải, tiếp tục chung sống. Nay chị xác định mâu thuẫn giữa chị và anh N đã trầm trọng, tiếp tục chung sống không hạnh phúc nên yêu cầu ly hôn.

Về con: Chị và anh N có 02 người con là Trần Duy C, sinh ngày 25/10/216; Trần Duy K, sinh ngày 27/10/2019 hiện đang sống cùng chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được nuôi con, không yêu cầu anh N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Chị không yêu cầu giải quyết.

Anh Trần Thái N vắng mặt trong quá trình tố tụng nên không có lời trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu phát biểu:

Quá trình thụ lý giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định Luật tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành đúng theo giấy triệu tập của Tòa án.

Ý kiến về giải quyêt vụ án:

Về hôn nhân: Năm 2016, chị C và anh N tự nguyện yêu thương, chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn, do đó hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Trong thời gian chung sống giữa chị C và anh N phát sinh nhiều mâu thuẫn không thể hàn gắn. Xét thấy hôn nhân giữa chị C và anh N đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị C ly hôn với anh N là phù hợp.

Về con: Xét thấy người con Trần Duy C, sinh ngày 25/10/216; Trần Duy K, sinh ngày 27/10/2019 hiện nay đang sống cùng với chị C. Nhằm ổn định cuộc sống của con chưa thành niên nên giao con cho chị C tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Anh N có quyền, nghĩa vụ thăm con chung không ai được cản trở.

Chị Nguyễn Tú C không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản: Chị C không yêu cầu nên không xem xét.

Về án phí đương sự nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Hải về tuân theo pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Tú C khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Trần Thái N, anh N có địa chỉ cư trú tại ấp CT, xã ĐT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu.

Chị C có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh N được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham dự phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 1 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt chị C và anh N.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về hôn nhân: Năm 2016, chị C và anh N tự nguyện yêu thương, chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã AT, huyện ĐH, tỉnh Bạc Liêu nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp.

Trong thời gian chung sống giữa chị C và anh N phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là vợ chồng không cùng quan điểm, mỗi người có suy nghĩ, cách sống khác nhau, hiện nay chị C xác định mâu thuẫn giữa chị và anh N đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn nên yêu cầu ly hôn.

Hội đồng xét xử xét thấy: Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc, vợ chồng có nghĩa vụ yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ. Tuy nhiên, qua thời gian chung sống giữa chị C và anh N không thực hiện được mà còn phát sinh nhiều mâu thuẫn và sống ly thân 04 tháng, trong khoảng thời gian sống ly thân anh chị không còn quan tâm, chăm sóc cho nhau. Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh N đến tham dự phiên hòa giải, phiên tòa nhưng anh N vắng mặt không có lý do. Điều đó cho thấy hôn nhân của chị C và anh N đã lâm vào trình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận yêu cầu của chị C được ly hôn với anh N là phù hợp.

[2.2]. Về con: Xét thấy người con Trần Duy C, sinh ngày 25/10/216; Trần Duy K, sinh ngày 27/10/2019 đang sống cùng với chị C. Nhằm ổn định cuộc sống của con chưa thành niên cần giao con cho chị C tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Anh N có quyền, nghĩa vụ thăm con chung không ai được cản trở.

Chị C không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

[2.3]. Về tài sản: Chị C không yêu cầu nên không xem xét.

[2.4]. Về án phí: Chị C phải nộp số tiền 300.000 đồng, được đối trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Ý kiến của Kiểm sát viên là phù hợp, Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; khoản 1, 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 53, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho chị Nguyễn Tú C được ly hôn với anh Trần Thái N.

2. Về con chung: Giao người con Trần Duy C, sinh ngày 25/10/216; Trần Duy K, sinh ngày 27/10/2019 cho chị Nguyễn Tú C tiếp tục nuôi dưỡng. Anh Trần Thái N có quyền, nghĩa vụ thăm con chung không ai được cản trở.

Chị Nguyễn Tú C không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

3. Về tài sản: Chị Nguyễn Tú C không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí sơ thẩm hôn nhân: Chị Nguyễn Tú C nộp số tiền 300.000 đồng, chị Nguyễn Tú C đã nộp tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0002096 vào ngày 23/02/2022 tại C cục thi hành án dân sự huyện Đông Hải được chuyển thu án phí.

Án xử công khai, chị Nguyễn Tú C, anh Trần Thái N có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con số 64/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:64/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Hải - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về