Bản án về ly hôn giữa chị Q và anh T số 36/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 36/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/04/2022 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ Q VÀ ANH T

Ngày 08 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 399/2021/TLST- HNGĐ ngày 29 tháng 11 năm 2021 về “Tranh chấp ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số: 19/2022/QĐST- HNGĐ ngày 16 tháng 3 năm 2022, giữa:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Q, sinh năm 1991 (có mặt) Địa chỉ: Thôn T, xã B, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1991 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn N, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ghi ngày 23 tháng 11 năm 2021, các lời khai tiếp theo và diễn biến tại phiên tòa, chị Vũ Thị Q là nguyên đơn trình bày: Chị và anh Nguyễn Ngọc T được tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 18/6/2018 tại UBND xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được khoảng 1 tháng thì anh T vi phạm pháp luật phải đi cải tạo tại Trại Giam Ngọc Lý. Đến tháng 9/2020 anh T trở về địa phương, vợ chồng tiếp tục chung sống cùng nhau nhưng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh T không tu chí làm ăn, chỉ thích đi chơi và uống rượu, chị và gia đình đã khuyên bảo nhiều lần nhưng anh T không nghe. Tháng 6/2021 chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, vợ chồng sống ly thân, cắt đứt quan hệ tình cảm và kinh tế.

Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, chị đề nghị giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc T Về con chung, tài sản, công nợ chung: Vợ chồng không có nên chị không đề nghị giải quyết.

Bị đơn, anh Nguyễn Ngọc T có hộ khẩu thường trú tại Thôn N, xã C, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh T thông qua ông Nguyễn Văn Hưu là bố đẻ của anh T, nhưng anh T không gửi bản tự khai, không đến Tòa án làm việc và vắng mặt tại phiên tòa .

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến:

Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên tòa Thẩm phán và Thư ký tòa án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử sơ thẩm T hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về phía các đương sự, nguyên đơn chấp hành nghiêm chỉnh, T hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình, bị đơn không chấp hành và vắng mặt tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; Điều 227, Điều 228; Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án, xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị Q và anh Nguyễn Ngọc T.

Về án phí: Chị Q phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra chứng cứ tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Ngọc T nhưng anh T vắng mặt tại phiên tòa nên HĐXX căn cứ vào điểm b, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của BLTTDS xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về nội dung: Chị Vũ Thị Q kết hôn với anh Nguyễn Ngọc T ngày 18/6/2018 trên cơ sở được tự do tìm hiểu và hoàn toàn tự nguyện nên hôn nhân giữa chị Q và anh T là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn nên chị Q và anh T đã sống ly thân, cắt đứt quan hệ tình cảm và kinh tế. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cuộc sống, không thông cảm và chia sẻ cùng nhau. Chị Q xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tự được và tha thiết xin ly hôn. Anh T đã biết Tòa án giải quyết vụ án nhưng không đến làm việc để trình bày lời khai và cũng không gửi Bản tự khai cho Tòa án. Điều đó chứng tỏ cuộc sống vợ chồng giữa chị Q và anh T đã đến mức trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần căn cứ Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, cho ly hôn giữa chị Vũ Thị Q và anh Nguyễn Ngọc T.

[3] Về con chung, tài sản, công nợ chung: Không có, không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí: Chị Q phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 4 Điều 147; điểm b, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 24, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1.Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị Q và anh Nguyễn Ngọc Thưc.

2.Về án phí: Chị Vũ Thị Q phải chịu 300.000đ tiền án phí ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ chị Q đã nộp tạm ứng án phí tại biên lai thu số: 0013427 ngày 29/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện L.

3. Báo cho đương sự có mặt biết, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn giữa chị Q và anh T số 36/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:36/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạng Giang - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về