TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 26/2023/HS-ST NGÀY 22/06/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 6 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 23/2023/TLST-HS ngày 19/4/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 82/2023/QĐXXST-HS ngày 30/5/2023, đối với bị cáo:
Lê Kim T; Giới tính: Nam; sinh năm 1994, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Đăng ký thường trú: Số 432/8, đường Dương Bá Trạc, Phường 1, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở trước khi bị bắt: Số X, đường Dương Bá Trạc, Phường 1, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 6/12;
Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Lê Trọng N và bà Bùi Thị N; vợ, con: không;
Tiền án: Bản án số 99/2019/HSST, ngày 25/7/2019 của Tòa án nhân dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội trộm cắp tài sản.
Tiền sự: Không.
Nhân thân: Bản án số 51/2012/HSST, ngày 13/3/2012 của Tòa án nhân dân huyện B Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội mua bán trái phép chất ma túy.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 08/01/2023 đến nay (có mặt).
* Bị hại: Chị Đoàn Thị Tuyết D, sinh năm 1982 Địa chỉ: Số Z đường Dương Cát Lợi, khu phố 4, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 00h20’ ngày 05/01/2023, Nguyễn Văn B gọi điện thoại rủ Lê Kim T đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng. T đồng ý và thuê xe honda ôm đến hẻm số 115, đường PHL, phường Phú Mỹ, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh để cùng B đi trộm cắp tài sản. B mang theo 01 cây kìm thủy lực (loại bơm dầu), rồi điều khiển xe môtô biển số 59L2-733.xx chở T đi trên đường Huỳnh Tấn Phát, hướng từ Quận 7 đi đến huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, khi đến trước nhà trọ số x, đường Dương Cát Lợi, khu phố 4, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, thì B và T phát hiện bên trong hành lang của nhà trọ có 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda, loại ViSion, biển số 95H1-622.xx của chị Đoàn Thị Thúy D đang đậu, nên dừng xe lại quan sát, thấy không có người trông coi, nên B điều khiển xe chạy thêm một đoạn khoảng 14m thì dừng lại và lấy cây kìm thủy lực đưa cho T làm công cụ cắt phá ổ khóa cửa rào nhà trọ. T đi đến cắt ổ khóa xong thì mang ổ khóa cùng cây kìm thủy lực đưa lại cho B giữ; T quay lại mở cửa rào nhà trọ và đến gần xe môtô biển số 95H1-622.xx kiểm tra, thấy xe không khóa cổ, nên T dẫn lùi xe ra ngoài hẻm, đến vị trí B đang đứng cảnh giới. Sau đó, B điều khiển xe môtô biển số 59L2-733.xx, còn T ngồi trên xe môtô biển số 95H1-622.xx để cho B đẩy đi. Cả hai mang chiếc xe môtô biển số 95H1-622.xx đến khu vực hẻm số 115 (phía trước nhà B), đường PHL, phường Phú Mỹ, Quận 7 để cất giấu rồi B đi xe về nhà, còn T cũng thuê xe honda ôm về nhà. Trên đường đi về nhà, T bị Công an phường Phú Mỹ, Quận 7 tiến hành kiểm tra hành chính và đã khai nhận trước đó T cùng B thực hiện hành vi trộm cắp xe môtô biển số 95H1-622.xx tại huyện Nhà Bè và khai báo nơi cất giấu xe mô tô vừa trộm, khi Công an đến nơi thì B đã bỏ trốn.
Kết luận định giá tài sản số 01/KL-HĐĐGTTHS ngày 09/01/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Nhà Bè, kết luận: 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda, loại ViSion, biển số 95H1-622.xx, số khung: RLHJK0318MZ008223, số máy: JK03E5214469, màu xanh đen, tình trạng xe đã qua sử dụng, mua mới vào đầu năm 2021, được định giá là 30.800.000đ.
Tại bản Cáo trạng số 25/CT-VKS-NB ngày 17/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, truy tố bị cáo Lê Kim T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản”, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Lê Kim T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm. Về dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã thu hồi, trả lại cho bị hại. Bị hại không ai có yêu cầu bồi thường gì thêm nên miễn xét.
Bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mà không có ý kiến tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố Tụng hình sự. Bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai bị hại, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 02h30’ ngày 05/01/2023, tại nhà trọ số x, đường Dương Cát Lợi, khu phố 4, thị trấn Nhà Bè, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, Lê Kim T cùng đồng phạm đã thực hiện hành vi trộm cắp chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda, loại ViSion, biển số 95H1-622.xx, trị giá 30.800.000đ (Ba mươi triệu, tám trăm nghìn đồng) của chị Đoàn Thị Tuyết D. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
[3] Xét tính chất vụ án và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tội phạm thuộc loại ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, bị cáo trộm cắp tài sản để có tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng. Bị cáo đã bị đưa ra xét xử, chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm. Ngoài ra bị cáo còn bị đưa ra xét xử vào năm 2012 nhưng đã được xóa án nên chỉ coi là nhân thân mà không coi là tiền án tiền sự nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân, vì tham lam, muốn có tiền tiêu xài mà không phải lao động, bị cáo tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, bất chấp sự trừng trị của pháp luật. Do đó, cần có hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội, nhân thân của từng bị cáo để răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội. Tuy nhiên cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì có thái độ khai báo thành khẩn.
[4] Về xử lý vật chứng:
[4.1] 01 chiếc xe môtô nhãn hiệu Honda, loại ViSion, biển số 59L2-733.xx, bị cáo cùng Lê Văn B sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp tài sản là của bà Phạm Thị Thu N, bà N đã ủy quyền cho anh Huỳnh Thanh T bán chiếc xe mô tô trên cho bà Trần Thị Thanh L (mẹ ruột Nguyễn Văn B). Ngày 04/01/2023, bà L cho B mượn xe đi uống cà phê, sáng ngày 05/01/2023, B đã về trả xe cho bà L rồi đi đâu không rõ. Việc B sử dụng chiếc xe làm phương tiện cùng Lê Kim T đi trộm cắp tài sản, bà L hoàn toàn không biết. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè đã trả lại chiếc xe môtô biển số 59L2-733.xx cho bà Trần Thị Thanh L.
[4.2] 01 chiếc điện thoại di động, hiệu Samsung Galaxy A20, màu đen Lê Kim T sử dụng liên lạc với B bàn về việc đi trộm cắp, là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.
[4.3] 01 chiếc kiềm thủy lực và 01 ổ khóa, loại khóa số màu đỏ đen do Nguyễn Văn B cất giữ không thu hồi được.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi, trả lại cho bị hại. Bị hại không ai có yêu cầu bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.
[6] Đối với người có tên Nguyễn Văn B hiện không có mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì không rõ nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè tiếp tục xác minh, truy tìm, xử lý sau.
[7] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: bị cáo Lê Kim T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/01/2023.
[2] Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Tịch thu sung vài ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động, hiệu Samsung Galaxy A20, số IMEI 1: 357648107149697, số IMEI 2: 357649107149695, màu đen, tình trạng đã qua sử dụng.
(Vật chứng theo phiếu nhập kho số 2023-NK029, ngày 03/4/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh) [3] Về án phí: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lê Kim T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[4] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ
Bản án 26/2023/HS-ST về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 26/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/06/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về