TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG – THÁP CHÀM, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 116/2023/HS-ST NGÀY 17/08/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 100/2023/HSST ngày 07 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2023/QĐXXST-HS ngày 03/8/2023 đối với bị cáo:
Phan Văn T, sinh ngày 04/10/1993 tại Ninh Thuận; Nơi cư trú: Khu phố 1, phường P, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận. Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan Văn G và bà Trần Thị Minh Ph; Vợ, con: chưa có. Tiền sự: Không.
Tiền án:
- Ngày 19/5/2015, Phan Văn T bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt 12 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
- Ngày 05/4/2017, Phan Văn T bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 29/01/2018.
- Ngày 12/6/2019, Phan Văn T bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt 30 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/7/2021.
- Ngày 24/3/2022, Phan Văn T bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm xử phạt 09 tháng tù giam về tội “trộm cắp tài sản”, chấp hành xong vào ngày 30/9/2022.
Nhân thân:
- Ngày 03/02/2023, Phan Văn T bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời gian 24 tháng.
Bị cáo Phan Văn T đang cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện ma túy tỉnh Ninh Thuận (có mặt).
Bị hại:
- Ông Huỳnh Văn S, sinh năm 1969 (vắng mặt).
Nơi cư trú: Khu phố 2, phường M, TP. P, tỉnh Ninh Thuận.
- Ông Phan Tấn T, sinh năm 1972 (có đơn xin xét xử vắng mặt). Nơi cư trú: Khu phố 2, phường M, TP. P, tỉnh Ninh Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trong các ngày 21/12/2022 và ngày 20/02/2023, để có tiền tiêu xài cá nhân Phan Văn T đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn phường Mỹ Đông, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, cụ thể:
Vụ thứ nhất: Khoảng 14 giờ ngày 21/12/2022, T điều khiển xe mô tô biển số 85C1 – 074.XXđi đến khu vực rẫy của ông Huỳnh Văn S, sinh năm 1969, trú tại: Khu phố 2, phường Mỹ Đông thấy 01 mô tơ điện máy bơm nước, loại 01 ngựa 02 pha để ở bụi tre gần bờ sông Dinh. T quan sát thấy không có người trông coi nên lại gần lấy trộm mô tơ điện máy bơm nước chở đi bán tại một tiệm phế liệu không rõ địa chỉ được 300.000 đồng để tiêu xài cá nhân.
Vụ thứ hai: Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 20/02/2023, cũng phương thức như trên T điều khiển xe đi đến khu vực đìa tôm của ông Phan Tấn T, sinh năm 1972, trú tại: Khu phố 2, phường Mỹ Đông. T thấy chòi trong đìa tôm không có người nên T đi bộ vào tìm tài sản để trộm cắp, T thấy 01 mô tơ điện máy bơm nước, loại 02 ngựa 03 pha để bên trong chòi. T lấy mô tơ chở đi bán tại tiệm phế liệu không rõ địa chỉ được 500.000 đồng để tiêu xài cá nhân.
Tại kết luận định giá tài sản số 25/KLTS ngày 03/4/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Phan Rang – Tháp Chàm kết luận:
- 01 mô tơ điện máy bơm nước, loại 1 ngựa 2 pha, không thu hồi được, có giá trị thực có vào thời điểm bị trộm cắp là 400.000 đồng;
- 01 mô tơ điện máy bơm nước, loại 2 ngựa 3 pha, không thu hồi được, có giá trị thực có vào thời điểm bị trộm cắp là 600.000 đồng.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung vụ án đã nêu. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, hay khiếu nại gì về kết luận của Hội đồng định giá nêu trên.
Bản cáo trạng số 101/CT-VKSPRTC ngày 05/7/2023 của Viện kiểm sát thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, truy tố bị cáo Phan Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phan Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;
Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phan Văn T mức án từ 09 tháng đến 12 tháng tù. Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.
Bị cáo không tranh luận; Lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức được việc làm của mình là sai trái và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Xét về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân TP. Phan Rang – Tháp Chàm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo khai nhận T bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Trong các ngày 21/12/2022 và ngày 20/02/2023, trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm bị cáo Phan Văn T đã 02 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Tổng giá trị tài sản mà bị cáo T trộm cắp 1.000.000 đồng (một triệu đồng). Bị cáo Phan Văn T có tiền án về tội trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích nay tiếp tục phạm tội nên Viện kiểm sát nhân dân TP.
Phan Rang – Tháp Chàm truy tố bị cáo Phan Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng do mục đích tư lợi nên vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo T đã nhiều lần bị đưa ra xét xử về tội trộm cắp nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện nay lại tiếp tục phạm tội nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, đã tác động gia đình bồi thường T bộ thiệt hại cho những người bị hại, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Về trách nhiệm dân sự:
Ông Huỳnh Văn S đã nhận số tiền 400.000 đồng và ông Phan Tấn T đã nhận số tiền 600.000 đồng từ ông Phan Văn G là cha bị cáo. Ông S, ông T không có yêu cầu gì thêm về vấn đề dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.
[6] Về xử lý vật chứng:
- Đối với 01 mô tơ điện máy bơm nước, loại 1 ngựa 2 pha và 01 mô tơ điện máy bơm nước, loại 2 ngựa 3 pha. Quá trình điều tra, Phan Văn T khai không nhớ địa điểm tiêu thụ tài sản nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh nên chưa thu hồi được tài sản.
- Đối với xe mô tô Dream biển số 85C1 – 074XX, mà T sử dụng làm phương tiện phạm tội. Qua kiểm tra, xác định số máy là VTT18JL1P50FMG000735, không có số khung. Tra cứu biển số 85C1 – 074.XXxác định số máy VTT01JL1P52FMH003060, số khung: RRKCH0UM5XE03060 do ông Nguyễn Quốc Thống, sinh năm 1990, trú tại: thôn Hộ Diêm, xã Hộ Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận đứng tên chủ sở hữu. Bị cáo T khai đây là xe của mẹ bị cáo bà Trần Thị Minh Phương, việc bị cáo sử dụng xe làm phương tiện để trộm cắp tài sản bà Phương không biết. Hiện nay, Cơ quan điều tra chưa làm việc được với ông Nguyễn Quốc Thống vì ông Thống không có mặt tại địa phương. Do chưa xác định được cụ thể chủ sở hữu của chiếc xe nêu trên nên Hội đồng xét xử tiếp tục giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. Phan Rang – Tháp Chàm tiếp tục tạm giữ xe mô tô biển số 85C1 – 074XX để xác minh làm rõ, xử lý sau là có căn cứ.
- Đối với 01 kìm bằng kim loại, dài 20cm, tay cầm bọc nhựa màu vàng đen dài 12cm, T dùng để sử dụng vào mục đích trộm cắp tài sản. Đây là vật chứng vụ án, không còn giá trị sử dụng nên Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy là có căn cứ.
[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo, bị hại, được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo bị cáo Phan Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Căn cứ: Điểm b khoản 1 Điều 173; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Phan Văn T 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt chấp hành án.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tuyên tịch thu, tiêu hủy 01 (một) kìm bằng kim loại, dài 20cm, tay cầm bọc nhựa màu vàng đen dài 12cm (theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang – Tháp Chàm ngày 17/8/2023).
Giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phan Rang – Tháp Chàm tiếp tục tạm giữa 01 (một) xe Dream biển số 85C1–074XX, số máy VTT01JL1P52FMH003060, số khung: RRKCH0UM5XE03060 để xác định rõ chủ sở hữu và xử lý theo quy định của pháp luật.
Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Phan Văn T phải chịu 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai, bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 17/8/2023. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể ngày bản án sơ thẩm được tống đạt hợp lệ.
a
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 116/2023/HS-ST
Số hiệu: | 116/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về