Bản án 104/2017/HSST ngày 21/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LÀO CAI – TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 104/2017/HSST NGÀY 21/11/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 21/11/2016 tại Nhà văn hóa tổ 8 phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Toà án nhân dân thành phố Lào Cai tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 111/2017/HSST ngày 03/11/2017 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T - Sinh ngày 07/11/1977 tại Nam Định;

Dân tộc: Kinh; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hoá: 2/12. Nơi ĐKHKTT: Đội 04, xã G, huyện G, tỉnh N.

Chỗ ở: Tổ 03, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai.

Con ông Nguyễn Trung T (đã chết) và con bà Nguyễn Thị D -Sinh năm 1959; Hiện đang trú tại đội 04, xã G, huyện Gia, tỉnh N.

Vợ: Mai Thị T - Sinh năm 1979. Hiện đang trú tại tổ 03, phường, thành phố L.

Bị cáo có 04 con, lớn nhất sinh năm 1999, bé nhất sinh năm 2009. Hiện cả bốn con đều trú tại tổ 03, phường B, thành phố L, tỉnh Lào Cai.

Tiền án: không; tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 24/9/2017. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Lào Cai. Có mặt tại phiên toà.

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Văn T bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Hồi 18 giờ 10 phút ngày 24/9/2017 tại khu vực tổ 03, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, Công an thành phố Lào Cai phát hiện, bắt quả tang Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình kiểm tra, Nguyễn Văn T tự giác lấy từ túi quần bên phải đang mặc và giao nộp cho tổ công tác 01 cục bên ngoài cuốn túi nilon màu đen, bên trong là lớp giấy bạc chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục, Nguyễn Văn T khai nhận đó là Heroine mà Nguyễn Văn T vừa mua về để sử dụng cho bản thân. Ngoài ra, còn tạm giữ của Nguyễn Văn T 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER màu xanh, trắng BKS 18G1- 170.47 (xe đã qua sử dụng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen (đã qua sử dụng) 01 chiếc điện thoại Iphone 6 màu trắng (đã qua sử dụng) và 350.000 (Ba trăm năm mươi nghìn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Công an thành phố Lào Cai đó tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng trước sự chứng kiến của ông Bùi Văn S (Sinh năm 1957; Nơi ĐKHKTT và chổ ở: Tổ 26, phường Kim Tân, thành phố Lào Cai) theo quy định pháp luật.

Ngày 25/9/2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai ra quyết định trưng cầu giám định số 174 đối với vật chứng đã thu giữ của Nguyễn Văn T. Tại biên bản mở niêm phong, trích mẫu, tái niêm phong và giao nhận đối tượng giám định lập ngày 25/9/2017 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai và Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai xác định niêm phong còn nguyên vẹn, đúng quy định. Tiến hành mở niêm phong và xác định trọng lượng (khối lượng): 01 (Một) túi nilon màu đen (thu giữ khi bắt quả tang Nguyễn Văn T), bên trong là lớp giấy bạc màu trắng chứa chất bột khô, màu trắng, vón cục. Trọng lượng của số chất bột khụ, màu trắng, vón cục này là 0,27gam. Phòng kỹ thuật hình sự tiến hành trộn đều, đồng nhất mẫu, sau đó trích mẫu 0,08 gam từ 0,27 gam chất bột khô, màu trắng, vón cục để giám định. Còn 0,19 gam được tái niêm phong, hoàn lại cơ quan trưng cầu.

Tại kết luận giám định số 193/GĐMT ngày 26/9/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai kết luận: 0,27gam chất bột khô, màu trắng, vón cục gửi giám định là loại chất ma túy Heroine thuộc danh mục I, số thứ tự 20, Nghị định số 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ .

Cáo trạng số:108/KSĐT ngày 02/11/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai đó truy tố Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 - Bộ Luật Hình sự 1999.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự 1999; khoản 3 điều 7; điểm c khoản 1 điều 249 Bộ Luật Hình sự  2015 sửa đổi bổ sung năm 2017Nghị quyết số 144/2016/QH13 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ Luật Tố tụng Hình sự 2003. Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 bì thư tái niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai bên trong bì thư có chứa 0,19 gam heroine; Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER màu xanh, trắng BKS 18G1-170.47 (đã qua sử dụng); 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen (đã qua sử dụng); Tiếp tục tạm giữ số tiền 200.000đ để đảm bảo thi hành án, số còn lại 150.000đ trả lại cho bị cáo.

Không áp dụng hình bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; Tuyên án phí và quyền kháng cáo đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Trong qua trình điều tra và tại phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Văn T đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo như sau: Do nghiện ma túy khoảng 17 giờ 00phút ngày 24/9/2017, bị cáo một mình đi xe mô tô YAMAHA EXCITER màu xanh, trắng biển kiểm soát 18G1- 170.47 từ nhà ở tổ 03, phường Bắc Cường đến khu vực ngã ba Bến Đá, xã Cam Đường, thành phố Lào Cai gặp và mua của một người nam giới (không biết tên, địa chỉ) mua 01 gói Heroine với giá 350.000 đồng. Sau khi mua xong bị cáo cất gói Heroine vào túi quần đang mặc bên phải rồi điều khiển xe mô tô về đường Lê Thanh thuộc tổ 03, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai để sử dụng cho bản thân thì bị kiểm tra bắt giữ.

Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Văn T tại phiên toà hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và lời khai của người làm chứng, phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Nguyễn Văn T đã thực hiện hành vi tàng trữ trái phép 0,27 gam heroine và bị bắt quả tang vào ngày 24/9/2017. Hành vi của bị cáo phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự 1999. Theo khoản 1 điều 194 BLHS 1999 quy định “Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”. Điểm c khoản 1 điều 249 BLHS 2015 quy định “Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích để mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ một đến năm năm: a)...; b)...c) Heroine, cocain.... có khối lượng từ 0,1gam đến 5gam. Như vậy các quy định tại khoản 3 điều 7; điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, đây là điều khoản có lợi cho bị cáo. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lào Cai truy tố bị cáo là hoàn toàn chính xác, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước ta, gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố Lào Cai. Vì vậy đối với bị cáo cần phải có một mức hình phạt thật nghiêm khắc, phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có điều kiện để giáo dục và cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt. Xong Hội đồng xét xử xét thấy trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra bố đẻ bị cáo ông Nguyễn Trung T, ông bà nội, ông ngoại bị cáo được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân huy chương, bằng khen. Vì vậy nên giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt là phù hợp với qui định tại điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự.

Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Về nguồn gốc số heroine: Bị cáo khai nhận mua của người nam giới không quen biết tên tuổi, địa chỉ tại khu vực ngã ba Bến Đá, xã Cam Đường, thành phố Lào Cai. Ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu nào chứng minh làm rõ người nam giới đó bán ma túy cho bị cáo nên không xác định được đối tượng để xử lý trong vụ án này.

Về vật chứng: 01 bì thư tái niêm phong bên trong đựng 0,19 gam heroine đã được niêm phong hoàn lại sau khi trích mẫu giám định của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lào Cai. Xét thấy đây thuộc danh mục các chất Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ theo điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự là phù hợp.

Đối với 01 chiếc xe máy YAMAHA EXCITER màu xanh, trắng biển kiểm soát 18G1- 170.47 và 01 chiếc điện thoại Nokia màu đen (đã qua sử dụng). Quá trình điều tra xác định chiếc xe máy và chiếc điện thoại trên không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, do vậy cần trả lại cho bị cáo là phù hợp.

Đối với 01 chiếc điện thoại Iphone 6 màu trắng (đã qua sử dụng). Quá trình điều tra xác định chiếc điện thoại trên là tài sản của anh Nguyễn Trung T là em trai Nguyễn Văn T không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, ngày 24/10/2017 Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Lào Cai ra quyết định xử lý vật chứng và trả lại chiếc điện thoại trên cho anh T, xét thấy là phù hợp.

Đối với số tiền 350.000đ, bị cáo còn phải thi hành khoản tiền án phí, do vậy cần tạm giữ số tiền 200.000đ, số tiền còn lại 150.000đ cần trả lại cho bị cáo, xét thấy là phù hợp.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng khoản 1 điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 điều 46 Bộ luật Hình sự 1999; khoản 3 điều 7; điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 12 (mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo tạm giữ, tạm giam: ngày 24/9/2017.

Về vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ 01 (một) bì thư bên trong đựng 0,19 gam Heroine niêm phong đúng quy định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Lào Cai. Trên một mặt của bì có ghi: “Vật chứng còn lại sau trích mẫu giám định thu trong vụ Nguyễn Văn T có hành vi phạm tội về ma túy. Phát hiện (thu giữ) ngày 24/9/2017 tại tổ 03 phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai.

Trả lại cho bị cáo 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA EXCITER màu xanh, trắng biển kiểm soát 18G1- 170.47; 01(một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen (đã qua sử dụng) và số tiền 150.000 đồng (một trăm năm mươi nghìn đồng).

Tạm giữ số tiền 200.000đ để đảm bảo công tác thi hành án (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 02/11/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lào Cai và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Lào Cai).

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

326
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 104/2017/HSST ngày 21/11/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:104/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lào Cai - Lào Cai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về