+ Cấp xét xử: Phúc thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.
+ Trích dẫn nội dung: “tại điểm b khoản 2 Điều 59 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”. Cho nên, việc cấp sơ thẩm đánh giá lao động của chị T là lao động không có công ích và buộc phải cung cấp chứng cứ chứng minh là không phù hợp và không đảm bảo nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ. Mặc dù không có chứng cứ chứng minh, nhưng công sức đóng góp của chị T vào khối tài sản chung của vợ chồng là có thật. Do đó, đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu kháng cáo, buộc anh H phải chia cho chị T một phần công sức đóng góp trong số tiền giá trị tài sản.”
+ Kết quả giải quyết: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn
+ Trích dẫn nội dung: “Về yêu cầu tiền công sức đóng góp của anh Hoàng Văn V là 50 triệu đồng. Hội đồng xét xử thấy, hai đương sự thừa nhận không có tài sản chung mà trong thời kỳ hôn nhân chị Dương Thị H đã mua được mảnh đất diện tích khoảng 170m2, trị giá 100 triệu đồng. Anh Hoàng Văn V cho rằng anh có công sức đóng góp, như đưa tiền cho vợ khi đi làm thuê có được và chị Dương Thị H thừa nhận là thi thoảng có đưa tiền mua thức ăn cho cả gia đình, chi phí cho con khi đưa đi học.”
+ Kết quả giải quyết: Về yêu cầu đòi tiền công sức đóng góp trong tài sản chung: Buộc chị Dương Thị H trả cho anh Hoàng Văn V số tiền 8.000.000đồng.
+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La.
+ Trích dẫn nội dung: “Trong số 04 con trâu và 02 con lợn hiện tại của bà o thì có 01 con trâu được 08 năm tuổi có trước khi vợ chồng anh chị về chung sống từ năm 2014, còn 03 con trâu và lợn có thêm sau năm 2014. Để duy trì, tạo lập và phát triển số tài sản (trâu, lợn) này cũng có một phần công sức đóng góp của chị S, do đó cần xem xét chấp nhận yêu cầu của chị S yêu cầu được chia một phần giá trị số tài sản chung là 04 con trâu và 02 con lợn có giá trị theo kết quả định giá ngày 26/11/2020 là 109.950.000,đ là có căn cứ theo quy định tại điều 61 Luật Hôn nhân và gia đình.”
+ Kết quả giải quyết: Về công sức đóng góp vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình: Buộc bà Cầm Thị O phải thanh toán trả cho chị Cầm Thị S số tiền 13.700.000,đ.
+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên.
+ Trích dẫn nội dung: “Chị H yêu cầu anh N phải trích chia 150.000.000đồng, cụ thể: Vào tháng 12/2015 đến tháng 01/2017 tôi có đưa cho mẹ chồng tôi mỗi tháng 03 triệu đồng, tiền đưa cho mẹ chồng tôi để dùng vào sinh hoạt hàng ngày của bà cháu và của gia đình. Đối với anh N và bà C không nhất trí với yêu cầu của chị H nhưng cũng đã thừa nhận chị H đã đưa tiền như nội dung trình bày nêu trên.”
+ Kết quả giải quyết: Về trích chia công sức đóng góp: Buộc anh N phải có trách nhiệm trích chia cho chị H khoản tiền công sức đóng góp trong quá trình duy trì và tôn tạo tài sản chung cho gia đình số tiền 15.000.000đ
+ Cấp xét xử: Sơ thẩm.
+ Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên.
+ Trích dẫn nội dung: “chị N yêu cầu anh Đ trích chia công sức đóng góp trong quá trình làm dâu 300.000.000 đồng. Xét thấy, vụ án thuộc trường hợp vợ chồng chung sống với gia đình và tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được, theo quy định tại khoản 1 Điều 61 Luật hôn nhân gia đình. Do đó cần phải xem xét, đánh giá công sức đóng góp của chị N vào việc tạo lập, duy trì và phát triển kinh tế và đời sống chung của gia đình. Buộc anh Đ phải trích chia cho chị N từ 50.000.000 đồng đến 70.000.000 đồng.”
+ Kết quả giải quyết: Về trích chia công sức đóng góp: Buộc anh Đ phải có trách nhiệm trích chia cho chị N khoản tiền công sức đóng góp trong quá trình duy trì và tôn tạo tài sản chung cho gia đình số tiền 60.000.000đ.