TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẠM TẤU, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 21/2018/HS-ST NGÀY 04/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 04 tháng 10 năm 2018, tại trụ sở Ủy ban nhân dân xã Pá Lau, huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 17/2018/TLST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2018/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 9 năm 2018 đối với bị cáo:
Vàng A S, sinh ngày 05 tháng 6 năm 1962 tại xã P, huyện T, tỉnh Yên Bái; trú tại thôn G, xã P, huyện T, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp trồng trọt; trình độ văn hóa 1/12; dân tộc Mông; giới tính nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Vàng A P (đã chết) và bà Hảng Thị D, sinh năm 1946; có vợ là Lý Thị S; con chưa có; tiền án, tiền sự không; nhân thân năm 2001 đi cai nghiện tại Trung tâm cai nghiện tỉnh Yên Bái; năm 2008 cai nghiện cộng đồng tại xã T; bị bắt tạm giữ từ ngày 15 tháng 5 năm 2018, đến ngày 16 tháng 5 năm 2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú “Có mặt”.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Hoa - Trợ giúp viên pháp lý Chi nhánh số 1, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Yên Bái “Có mặt”.
Người có quyền lợi liên quan: Bà Lý Thị S; nơi cư trú thôn G, xã P, huyện T, tỉnh Yên Bái “Có mặt”.
Người chứng kiến: Anh Thào A S; nơi cư trú thôn G, xã P, huyện T, tỉnh Yên Bái “Vắng mặt”.
Người phiên dịch tiếng Mông: Ông Mùa A Làng - Cán bộ Chi cục Thi hành án dân sư huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái “Có mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào hồi 20 giờ 00 phút, ngày 14 tháng 5 năm 2018, tại nhà riêng của Vàng A S ở thôn G, xã P, huyện T; tổ công tác Công an huyện Trạm Tấu bắt quả tang Vàng A S đang nằm hút thuốc phiện trên giường, thu giữ dưới chăn trên giường ngủ 01 gói nilon bên trong có chứa chất nhựa dẻo màu nâu đen, được để trong chiếc hộp nhựa màu vàng. S khai nhận gói chất nhựa dẻo màu nâu đen là thuốc, ngày 13-5-2018 S mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết với giá 160.000 đồng, tại khu vực suối H thuộc thôn G, xã P; mục đích mua về để sử dụng.
Tại bản kết luận giám định số: 98/GĐMT ngày 22-5-2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái đã kết luận: Chất nhựa dẻo màu nâu đen thu giữ của Vàng A S có khối lượng 3,09 (ba phảy không chín) gam là ma túy; là thuốc phiện.
Tại bản cáo trạng số: 16/CT-VKS-TT, ngày 10-8-2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Trạm Tấu, tỉnh Yên Bái truy tố Vàng A S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa bị cáo Vàng A S khai nhận toàn bộ hành vi mình đã thực hiện; người có quyền lợi liên quan đề nghị được nhận lại tài sản là tiền.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trạm Tấu giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Vàng A S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Vàng A S từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 1 và khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
+ Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) vỏ phong bì đã mở niêm phong; 01 (một) bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện đã cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) hộp nhựa màu vàng đã cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) túi vải màu đen có dây đeo, đã qua sử dụng; 01 (một) cân tiểu ly, có vỏ đựng bằng gỗ, đã cũ, đã qua sử dụng.
+ Trả lại cho bị cáo Vàng A S: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel A150 màu đen, đã cũ, đã qua sử dụng và 700.000 (bảy trăm nghìn) đồng.
- Bị cáo và người có quyền lợi liên quan không có ý kiến tranh luận gì.
- Người bào chữa cho bị cáo trình bày lời bào chữa: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, không biết chữ, nhận thức pháp luật còn hạn chế; nguyên nhân, động cơ phạm tội là tàng trữ để sử dụng; sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo của xã. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vàng A S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Vàng A S 01(một) năm 03 (ba) tháng tù.
- Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về vật chứng và tài sản bị tạm giữ: Nhất trí với đề nghị của Kiểm sát viên.
- Bị cáo không có ý kiến tranh luận bổ sung gì.
- Lời nói sau cùng của bị cáo: Đã biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, để sớm được trở về với gia đình và hòa nhập với xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Trạm Tấu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Trạm Tấu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Người bào chữa, bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai tại phiên toà của bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 20 giờ 00 phút, ngày 14-5-2018 tại nhà riêng của Vàng A S ở thôn G, xã P, huyện T; Vàng A S đã có hành vi cất giữ bất hợp pháp 3,09 (ba phẩy không chín) gam thuốc phiện được để trong chiếc hộp nhựa màu vàng, cất giấu dưới chăn, trên giường ngủ của Vàng A S.
Bị cáo Vàng A S là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức rõ việc cất giữ bất hợp pháp thuốc phiện là vi phạm pháp luật hình sự và biết được tác hại của ma tuý đối với sức khỏe con người và đời sống xã hội, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy bất hợp pháp của bản thân. 3,09 gam thuốc phiện mà bị cáo S tàng trữ đã đủ về lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo S thực hiện, đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách phòng, chống và kiểm soát ma túy của Nhà nước; tiếp tay cho tệ nạn ma túy gia tăng; ảnh hưởng đến sức khỏe con người; là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác và xâm hại trật tự an toàn xã hội.
[3] Từ những căn cứ trên đã có đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Vàng A S thực hiện đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự; lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, nên cần được chấp nhận.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Ngay sau khi bị bắt, bị cáo S đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5] Về nhân thân: Bị cáo S đã hai lần được đưa đi cai nghiện, nhưng sau cai, bị cáo vẫn tái nghiện. Thể hiện bị cáo là người có ý thức chấp hành pháp luật kém, có nhân thân không tốt tại địa phương.
[6] Từ những đánh giá về tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo như đã phân tích ở trên, cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo S ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, mới đủ thời gian, điều kiện để bị cáo cai nghiện, đồng thời giáo dục riêng bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
[7] Về hình phạt bổ sung: Tại biên bản xác minh về tài sản cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo S không có tài sản gì, thuộc diện hộ nghèo của xã; nên, Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về vật chứng và tài sản tạm giữ:
Đối với: 3,09 gam thuốc phiện, cơ quan điều tra đã sử dụng hết vào việc giám định, nên không đặt ra để giải quyết.
Đối với: 02 (hai) vỏ phong bì thư đã mở niêm phong; 01 (một) bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện đã cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) hộp nhựa màu vàng đã cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) túi vải màu đen có dây đeo đã cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) cân tiểu ly, có vỏ đựng bằng gỗ, đã cũ, đã qua sử dụng. Đây là những vật không có giá trị sử dụng, nên cần tịch thu tiêu hủy, theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Đối với: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel A150 màu đen, đã cũ, đã qua sử dụng là tài sản riêng của bị cáo, không liên quan đến tội phạm, nên cần trả lại cho bị cáo, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
Đối với: 700.000 (bảy trăm nghìn) đồng. Đây là tài sản chung của vợ chồng bị cáo S, không liên quan đến tội phạm, nên trả cho gia đình bị cáo, cụ thể trả cho vợ bị cáo là Lý Thị S, theo quy định tại khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[9] Về án phí và các vấn đề khác:
Đối với người phụ nữ dân tộc Mông là người S khai đã bán thuốc phiện cho S. Cơ quan điều tra không xác minh được, nên không có căn cứ để xử lý.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; bị cáo, người có quyền lợi liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vàng A S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
2. Về điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; xử phạt bị cáo Vàng A S 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, được trừ đi 02 (hai) ngày tạm giữ.
3. Về vật chứng và tài sản tạm giữ: Áp dụng khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
+ Tịch thu tiêu hủy: 02 (hai) vỏ phong bì thư đã mở niêm phong; 01 (một) bộ bàn đèn tự tạo dùng để hút thuốc phiện đã cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) hộp nhựa màu vàng đã cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) túi vải màu đen có dây đeo đã cũ, đã qua sử dụng; 01 (một) cân tiểu ly, có vỏ đựng bằng gỗ, đã cũ, đã qua sử dụng.
+ Trả lại bị cáo Vàng A S: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel A150 màu đen, đã cũ, đã qua sử dụng.
+ Trả lại Lý Thị S: 700.000 (bảy trăm nghìn) đồng được niêm phong trong 01 phong bì thư do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Yên Bái phát hành.
4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo S phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo S có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi liên quan Lý Thị S có quyền kháng cáo phần Bản án có liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án 21/2018/HS-ST ngày 04/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 21/2018/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Trạm Tấu - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/10/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về