Bản án 18/2018/HSST ngày 17/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 18/2018/HSST NGÀY 17/10/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 17 tháng 10 năm 2018, tại Hội trường thôn Phúc Sơn, xã Vạn Ninh, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 14/2018/HSST ngày 27 tháng 8 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2018/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2018 đối với bị cáo: Nguyễn Sỹ L, sinh ngày 03 tháng 3 năm 1988 tại Quảng Bình; nơi đăng ký HKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn X, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q và bà Đặng Thị Lẩm T; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình từ ngày 21 tháng 5 năm 2018 đến nay; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1960; trú tại: Thôn X, xã X, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác: Người làm chứng:

Ông Hồ Minh N, địa chỉ: Thôn P, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; có mặt.

Ông Võ Đức V, nơi đăng ký HKTT: Tiểu khu M, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 9 giờ 30 phút, ngày 21 tháng 5 năm 2018, ông Hồ Minh N vào phòng trọ của mình tại thôn P, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình kiểm tra, thì phát hiện Nguyễn Sỹ L (bị cáo trong vụ án) đang chuẩn bị sử dụng trái phép chất ma túy nên điện báo Công an huyện Quảng Ninh đến kiểm tra, xử lý. Quá trình kiểm tra, Cơ quan Công an huyện Quảng Ninh đã phát hiện và thu giữ: 02 viên nén màu hồng Nguyễn Sỹ L để trong túi quần bên phải của mình (01 viên được gói trong giấy bạc thuốc lá, 01 viên được bọc trong ống hút bằng nhựa được dán kín hai đầu; trên mặt mỗi viên có ký hiệu “WY”), Nguyễn Sỹ L khai nhận đó là ma túy tổng hợp; 01 xe môtô BSĐK 73KYY, nhãn hiệu HONDA, loại Dream II đã qua sử dụng. Nguyễn Sỹ L khai nhận: Vào khoảng 8 giờ 30 phút ngày 21 tháng 5 năm 2018, Nguyễn Sỹ L gọi điện thoại cho Võ Đức V, trú tại tiểu khu M, thị trấn Q, huyện Q, tỉnh Quảng Bình hỏi mua ma túy để sử dụng, Võ Đức V nói có nên Nguyễn Sỹ L mượn xe môtô biển số đăng ký (BSĐK) 73KYY của ông Nguyễn Văn Q, nói là đi Đ để đổi bằng lái xe nên được ông Q đồng ý, Nguyễn Sỹ L điều khiển xe môtô đến nhà Lê Đức V mua 02 (hai) viên ma túy tổng hợp (hồng phiến dạng viên nén) với giá 200.000 đồng. Sau khi có ma túy, Nguyễn Sỹ L không về nhà mà đến phòng trọ của ông Hồ Minh N tại thôn P, xã V, huyện Q, tỉnh Quảng Bình để sử dụng thì bị phát hiện, bị bắt quả tang khi đang cất giấu trong người.

Ngày 21-5-2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Quảng Ninh (Cơ quan CSĐT) trưng cầu giám định khối lượng chất ma túy đối với số ma túy thu giữ trong vụ án (02 viên nén). Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Quảng Bình kết luận tại bản Kết luận giám định số 456/GĐ – PC 54, ngày 24-5-2018: Mẫu ký hiệu A gửi giám định: 02 viên nén dạng thuốc tân dược màu hồng, trên một mặt mỗi viên đều có in chữ “WY” (do Cơ quan Công an huyện Quảng Ninh bắt quả tang, thu giữ tại Nguyễn Sỹ L) là Methamphetamine, khối lượng 0,197g (không phẩy một trăm chín mươi bảy gam). Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy, Số thứ tự: 323, Danh mục II, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ, hoàn trả cơ quan trưng cầu giám định 0,112 gam sau giám định (đã được niêm phong, ghi số 456/GĐ-PC 54).

Cơ quan CSĐT đã trả lại 01 xe môtô loại loại Dream II, BSĐK 73KYY cho ông Nguyễn Văn Q là chủ sở hữu, ngày 20-7-2018; chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q quản lý 0,112 gam ma túy Methamphetamine (đã được niêm phong số 456/GĐ-PC-54), ngày 27 tháng 8 năm 2018.

Tại bản Cáo trạng số 16/THQCT-KSĐT-MT ngày 24 tháng 8 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình truy tố bị cáo Nguyễn Sỹ L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Sỹ L khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh giữ quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại phiên tòa phát biểu quan điểm, luận tội chứng minh bị cáo Nguyễn Sỹ L đã thực hiện hành vi phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy loại Methamphetamine có khối lượng 0,197 gam, bị bắt quả tang. Cáo trạng truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự (BLHS), xử phạt bị cáo Nguyễn Sỹ L từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy vật chứng là 0,112 gam Methamphetamine đã được niêm phong.

Bị cáo Nguyễn Sỹ L nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát và lời luận tội của Kiểm sát viên; khai nhận ngày 21-5-2018 đã có hành vi tàng trữ trong người 02 viên ma túy hồng phiến có khối lượng và chất ma túy như Kết luận giám định, để sử dụng và đã bị bắt quả tang; hối hận về hành vi phạm tội của mình, tỏ thái độ ăn năn hối cải, quyết tâm từ bỏ việc sử dụng chất ma túy, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, không tái phạm; xin được Hội đồng xét xử xem xét cho Bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật để được xử nhẹ, sớm được trở về làm công dân lương thiện, có ích cho gia đình và xã hội.

Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án - Ông Nguyễn Văn Q trình bày: Việc bị cáo Nguyễn Sỹ L sử dụng xe môtô BSĐK 73KYY của Ông vào việc liên quan đến ma túy, Ông hoàn toàn không biết; nay Ông đã nhận lại xe môtô, không có ý kiến gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Công an huyện Quảng Ninh; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Sỹ L khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của Bị cáo thống nhất, hoàn toàn phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác; với các tài liệu chứng cứ trong vụ án; phù hợp về thời gian, địa điểm và quá trình diễn biến của vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở để xác định: Vào khoảng 09 giờ 30 phút ngày 21-5-2018, bị cáo Nguyễn Sỹ L có hành vi đang tàng trữ trong người khối lượng 0,197 gam ma túy loại Methamphetamine thì bị bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Nguyễn Sỹ L thuộc lỗi cố ý, Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự.

Điều 249 của Bộ luật Hình sự (hiện hành) “Tội tàng trữ trữ trái phép chất ma túy” quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) ...

...

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

...” Như vậy, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo Nguyễn Sỹ L đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự (BLHS). Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quảng Ninh truy tố và quan điểm, luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ pháp luật, đúng thực tế khách quan.

Hành vi phạm tội của Bị cáo gây lo lắng, hoang mang cho quần chúng nhân dân trước tình hình an ninh trật tự; tệ nạn, tội phạm về ma túy trên địa bàn đang diễn biến phức tạp. Do đó, cần phải nghiêm khắc xử lý hình sự, với mức độ tương ứng với tính chất vụ án mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và để răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, cũng xem xét các tình tiết khác đối với Bị cáo để quyết định mức hình phạt phù hợp.

[3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Sỹ L: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 của BLHS. Bị cáo đã tự giác, thành khẩn khai báo hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy; ăn năn hối cải nên có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS. Bị cáo có nhân thân tốt, thể hiện không có tiền án, tiền sự.

Theo lời khai của bị cáo Nguyễn Sỹ L thì Bị cáo đã mua ma túy tại Võ Đức V nhưng Võ Đức V không thừa nhận đã bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Sỹ L, cơ quan chức năng đang điều tra làm rõ việc này trong một vụ án khác.

[4] Về vật chứng: Khối lượng chất ma túy thu giữ trong vụ án là vật cấm tàng trữ, lưu hành do đó cần tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Xe mô tô hiệu HONDAloại DREAM II đã qua sử dụng, BSĐK 73KYY đã được xử lý trong giai đoạn điều tra đúng theo quy định của pháp luật nên không còn phải xử lý.

[5] Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Sỹ L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 268; khoản 1 Điều 269; điểm g khoản 2 Điều 260; khoản 1 Điều 298; khoản 1, khoản 4 Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Sỹ L phạm “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Sỹ L 12 (mười hai) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ ngày 21 tháng 5 năm 2018.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy vật chứng là 0,112 gam (không phẩy một trăm mười hai gam) ma túy Methamphetamine, đã được niêm phong số 456/GĐ-PC-54.

Vật chứng trên do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q đang quản lý theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 27 tháng 8 năm 2018, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Quảng Ninh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Quảng Bình.

Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về về án phí, lệ phí Tòa án bị cáo Nguyễn Sỹ L phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Sỹ L, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1347
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 18/2018/HSST ngày 17/10/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:18/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Ninh - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về