QUỐC HỘI
--------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Luật số:
19/2003/QH11
|
Hà Nội, ngày
26 tháng 11 năm 2003
|
BỘ LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số
51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10;
Bộ luật này quy định trình tự, thủ tục tiến
hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Phần thứ nhất
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Chương I
NHIỆM VỤ VÀ HIỆU LỰC CỦA
BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Điều 1. Nhiệm vụ của Bộ luật tố tụng
hình sự
Bộ luật tố tụng hình sự quy định trình tự, thủ tục
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự; chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và mối quan hệ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng; nhiệm vụ, quyền hạn
và trách nhiệm của những người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của những
người tham gia tố tụng, của các cơ quan, tổ chức và công dân; hợp tác quốc tế
trong tố tụng hình sự, nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện
chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Bộ luật tố tụng hình sự góp phần bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân, tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục mọi
người ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm.
Điều 2. Hiệu lực của Bộ luật tố tụng
hình sự
Mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật
này.
Hoạt động tố tụng hình sự đối với người nước
ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là công
dân nước thành viên của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã ký kết hoặc gia nhập thì được tiến hành theo quy định của điều ước quốc
tế đó.
Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các đặc quyền
ngoại giao hoặc quyền ưu đãi, miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo
các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc
gia nhập hoặc theo tập quán quốc tế, thì vụ án được giải quyết bằng con đường
ngoại giao.
Chương II
NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
Điều 3. Bảo đảm pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong tố tụng hình sự
Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến
hành theo quy định của Bộ luật này.
Điều 4. Tôn trọng và bảo vệ các
quyền cơ bản của công dân
Khi tiến hành tố tụng, Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm
sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm trong phạm vi
trách nhiệm của mình phải tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện
pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó, nếu xét thấy
có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết nữa.
Điều 5. Bảo đảm quyền bình đẳng của
mọi công dân trước pháp luật
Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc mọi
công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều
bị xử lý theo pháp luật.
Điều 6. Bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về thân thể của công dân
Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Toà
án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả
tang.
Việc bắt và giam giữ người phải theo quy định của
Bộ luật này.
Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình.
Điều 7. Bảo hộ tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, tài sản của công dân
Công dân có quyền được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản.
Mọi hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, tài sản đều bị xử lý theo pháp luật.
Người bị hại, người làm chứng và người tham gia
tố tụng khác cũng như người thân thích của họ mà bị đe dọa đến tính mạng, sức
khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản thì cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của
pháp luật.
Điều 8. Bảo đảm quyền bất khả xâm
phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại, điện tín của công dân
Không ai được xâm phạm chỗ ở, an toàn và bí mật
thư tín, điện thoại, điện tín của công dân.
Việc khám xét chỗ ở, khám xét, tạm giữ và thu giữ
thư tín, điện tín, khi tiến hành tố tụng phải theo đúng quy định của Bộ luật
này.
Điều 9. Không ai bị coi là có tội
khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt
khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Điều 10. Xác định sự thật của vụ
án
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải
áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác
định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của bị can, bị cáo.
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ
quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng
minh là mình vô tội.
Điều 11. Bảo đảm quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo
Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền tự bào
chữa hoặc nhờ người khác bào chữa.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án có nhiệm
vụ bảo đảm cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ
theo quy định của Bộ luật này.
Điều 12. Trách nhiệm của cơ quan
tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
Trong quá trình tiến hành tố tụng, cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải nghiêm chỉnh thực hiện những quy định
của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về những hành vi, quyết định của mình.
Người làm trái pháp luật trong việc bắt, giam,
giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì tuỳ theo tính chất, mức
độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 13. Trách nhiệm khởi tố và xử
lý vụ án hình sự
Khi phát hiện có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm khởi tố vụ án và áp dụng các biện pháp do Bộ luật này quy định để xác định
tội phạm và xử lý người phạm tội.
Không được khởi tố vụ án ngoài những căn cứ và
trình tự do Bộ luật này quy định.
Điều 14. Bảo đảm sự vô tư của những
người tiến hành hoặc người tham gia tố tụng
Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều
tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án,
Phó Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án không được tiến hành tố
tụng hoặc người phiên dịch, người giám định không được tham gia tố tụng, nếu có
lý do xác đáng để cho rằng họ có thể không vô tư trong khi thực hiện nhiệm vụ của
mình.
Điều 15. Thực hiện chế độ xét xử
có Hội thẩm tham gia
Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân
dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của Bộ luật
này. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.
Điều 16. Thẩm phán và Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật.
Điều 17. Toà án xét xử tập thể
Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Điều 18. Xét xử công khai
Việc xét xử của Toà án được tiến hành công khai,
mọi người đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do Bộ luật này quy định.
Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước,
thuần phong mỹ tục của dân tộc hoặc để giữ bí mật của đương sự theo yêu cầu
chính đáng của họ thì Toà án xét xử kín, nhưng phải tuyên án công khai.
Điều 19. Bảo đảm quyền bình đẳng
trước Toà án
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều
có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu
và tranh luận dân chủ trước Toà án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ
thực hiện các quyền đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Điều 20. Thực hiện chế độ hai cấp
xét xử
1. Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử.
Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án có thể bị
kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này.
Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối
với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được xét
xử phúc thẩm. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật.
2. Đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật mà phát hiện có vi phạm pháp luật hoặc có tình tiết mới thì
được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Điều 21. Giám đốc việc xét xử
Toà án cấp trên giám đốc việc xét xử của Toà án
cấp dưới, Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án nhân dân và
Toà án quân sự các cấp để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và
thống nhất.
Điều 22. Bảo đảm hiệu lực của bản
án và quyết định của Toà án
1. Bản án và quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật phải được thi hành và phải được các cơ quan, tổ chức và mọi công dân
tôn trọng. Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm của
mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án và phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó.
2. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ
quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị trấn, tổ chức và công dân phải phối
hợp với cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án
trong việc thi hành án.
Các cơ quan nhà nước, chính quyền xã, phường, thị
trấn có trách nhiệm tạo điều kiện và thực hiện yêu cầu của cơ quan, tổ chức có
nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án trong việc thi hành án.
Điều 23. Thực hành quyền công tố
và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
1. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố trong tố
tụng hình sự, quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước Toà án.
2. Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự có trách nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng,
áp dụng những biện pháp do Bộ luật này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật
của những cơ quan hoặc cá nhân này.
3. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm
tội đều phải được xử lý kịp thời; việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội.
Điều 24. Tiếng nói và chữ viết
dùng trong tố tụng hình sự
Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự
là tiếng Việt. Người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của
dân tộc mình, trong trường hợp này cần phải có phiên dịch.
Điều 25. Trách nhiệm của các tổ
chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm
1. Các tổ chức, công dân có quyền và nghĩa vụ
phát hiện, tố giác hành vi phạm tội; tham gia đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân, tổ chức.
2. Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm tạo điều
kiện để các tổ chức và công dân tham gia tố tụng hình sự; phải trả lời kết quả
giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm cho tổ chức đã báo tin, người đã tố
giác tội phạm biết.
3. Các tổ chức, công dân có trách nhiệm thực hiện
yêu cầu và tạo điều kiện để cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
thực hiện nhiệm vụ.
Điều 26. Sự phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng
1. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, các cơ
quan nhà nước phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm; phối hợp với Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án trong việc đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm.
Các cơ quan nhà nước phải thường xuyên kiểm tra,
thanh tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; phát hiện kịp thời các
hành vi vi phạm pháp luật để xử lý và phải thông báo ngay cho Cơ quan điều tra,
Viện Kiểm sát mọi hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong lĩnh vực quản
lý của mình; có quyền kiến nghị và gửi các tài liệu có liên quan cho Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát xem xét, khởi tố đối với người có hành vi phạm tội.
Thủ trưởng các cơ quan nhà nước phải chịu trách
nhiệm về việc không thông báo hành vi phạm tội xảy ra trong cơ quan và trong
lĩnh vực quản lý của mình cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.
Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện
yêu cầu và tạo điều kiện để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
thực hiện nhiệm vụ.
Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở hoạt động của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ.
2. Cơ quan thanh tra có trách nhiệm phối hợp với
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong việc phát hiện và xử lý tội phạm.
Khi phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội phạm thì phải chuyển ngay các tài liệu có
liên quan và kiến nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát xem xét, khởi tố vụ án
hình sự.
3. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát phải xem xét, giải quyết tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi
tố và phải trả lời kết quả giải quyết cho cơ quan nhà nước đã báo tin hoặc kiến
nghị biết.
Điều 27. Phát hiện và khắc phục
nguyên nhân và điều kiện phạm tội
Trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều
kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc
phục và ngăn ngừa.
Các cơ quan, tổ chức hữu quan phải trả lời về việc
thực hiện yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án.
Điều 28. Giải quyết vấn đề dân sự
trong vụ án hình sự
Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự
được tiến hành cùng với việc giải quyết vụ án hình sự. Trong trường hợp vụ án
hình sự phải giải quyết vấn đề bồi thường, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng
minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì có thể tách ra để
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Điều 29. Bảo đảm quyền được bồi
thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan
Người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động
tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự,
quyền lợi.
Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi cho
người bị oan; người đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật.
Điều 30. Bảo đảm quyền được bồi
thường của người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng hình sự gây ra
Người bị thiệt hại do cơ quan hoặc người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền được bồi thường thiệt hại.
Cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
hình sự phải bồi thường cho người bị thiệt hại; người đã gây thiệt hại có trách
nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Điều 31. Bảo đảm quyền khiếu nại,
tố cáo trong tố tụng hình sự
Công dân, cơ quan, tổ chức có quyền khiếu nại,
công dân có quyền tố cáo những việc làm trái pháp luật trong hoạt động tố tụng
hình sự của các cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng hình sự hoặc của
bất cứ cá nhân nào thuộc các cơ quan đó.
Cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, xem xét và
giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo; thông báo bằng văn bản
kết quả giải quyết cho người khiếu nại, tố cáo biết và có biện pháp khắc phục.
Trình tự, thủ tục và thẩm quyền giải quyết khiếu
nại, tố cáo do Bộ luật này quy định.
Điều 32. Giám sát của cơ quan, tổ
chức, đại biểu dân cử đối với hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng
Cơ quan nhà nước, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận, đại biểu dân cử có quyền giám sát hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; giám sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng.
Nếu phát hiện những hành vi trái pháp luật của
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thì cơ quan nhà nước, đại biểu
dân cử có quyền yêu cầu, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành
viên của Mặt trận có quyền kiến nghị với cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền
xem xét, giải quyết theo quy định của Bộ luật này. Cơ quan tiến hành tố tụng có
thẩm quyền phải xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị, yêu cầu đó theo quy định
của pháp luật.
Chương III
CƠ QUAN TIẾN HÀNH TỐ TỤNG,
NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG VÀ VIỆC THAY ĐỔI NGƯỜI TIẾN HÀNH TỐ TỤNG
Điều 33. Cơ quan tiến hành tố tụng
và người tiến hành tố tụng
1. Các cơ quan tiến hành tố tụng gồm có:
a) Cơ quan điều tra;
b) Viện kiểm sát;
c) Toà án.
2. Những người tiến hành tố tụng gồm
có:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra, Điều tra viên;
b) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên;
c) Chánh án, Phó Chánh án Toà án,
Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án.
Điều 34. Nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra
1. Thủ trưởng Cơ quan điều tra có
những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Trực tiếp tổ chức và chỉ đạo
các hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra;
b) Quyết định phân công Phó Thủ
trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên trong việc điều tra vụ án hình sự;
c) Kiểm tra các hoạt động điều tra
của Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên;
d) Quyết định
thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó
Thủ trưởng Cơ quan điều tra và Điều tra viên;
đ) Quyết định thay đổi Điều tra
viên;
e) Giải quyết khiếu nại, tố cáo
thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra.
Khi Thủ trưởng Cơ quan điều tra vắng
mặt, một Phó Thủ trưởng được Thủ trưởng uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Thủ trưởng. Phó Thủ trưởng chịu trách nhiệm trước Thủ trưởng về nhiệm vụ được
giao.
2. Khi thực hiện việc điều tra vụ
án hình sự, Thủ trưởng Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Quyết định khởi tố vụ án, khởi
tố bị can; quyết định không khởi tố vụ án; quyết định nhập hoặc tách vụ
án;
b) Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc
hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn;
c) Quyết định truy nã bị can, khám
xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản, xử lý vật chứng;
d) Quyết định trưng cầu giám định,
quyết định khai quật tử thi;
đ) Kết luận điều tra vụ án;
e) Quyết định tạm đình chỉ điều
tra, quyết định đình chỉ điều tra, quyết định phục hồi điều tra;
g) Trực tiếp tiến hành các biện
pháp điều tra; cấp, thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa; ra các quyết định
và tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra.
3. Khi được phân công điều tra vụ
án hình sự, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra có những nhiệm vụ và quyền hạn được
quy định tại khoản 2 Điều này.
4. Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định
của mình.
Điều 35. Nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên
1. Điều tra viên được phân công điều
tra vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Lập hồ sơ vụ án hình sự;
b) Triệu tập và hỏi cung bị can;
triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
c) Quyết định
áp giải bị can, quyết định dẫn giải người làm chứng;
d) Thi hành lệnh bắt, tạm giữ, tạm
giam, khám xét, thu giữ, tạm giữ, kê biên tài sản;
đ) Tiến hành khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra;
e) Tiến hành các hoạt động điều
tra khác thuộc thẩm quyền của Cơ quan điều tra theo sự phân công của Thủ trưởng
Cơ quan điều tra.
2. Điều tra viên phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật và trước Thủ trưởng Cơ quan điều tra về những hành vi và
quyết định của mình.
Điều 36. Nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
1. Viện trưởng Viện kiểm sát có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Tổ chức và chỉ đạo các hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố
tụng hình sự;
b) Quyết định phân công Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự;
c) Kiểm tra các hoạt động thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng
hình sự của Phó Viện trưởng Viện kiểm sát và Kiểm sát viên;
d) Kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án theo
quy định của pháp luật;
đ) Quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ
các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó Viện trưởng Viện kiểm
sát và Kiểm sát viên;
e) Quyết định rút, đình chỉ hoặc
huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Viện kiểm sát cấp
dưới;
g) Quyết định thay đổi Kiểm sát
viên;
h) Giải quyết khiếu nại, tố cáo
thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát.
Khi Viện trưởng Viện kiểm sát vắng
mặt, một Phó Viện trưởng được Viện trưởng uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện trưởng. Phó Viện trưởng chịu trách nhiệm trước Viện trưởng về nhiệm vụ
được giao.
2. Khi thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự,
Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Quyết định khởi tố vụ án, quyết
định không khởi tố vụ án, quyết định khởi tố bị can; yêu cầu Cơ quan điều tra
khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo quy
định của Bộ luật này;
b) Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều
tra thay đổi Điều tra viên;
c) Quyết định áp dụng, thay đổi, hủy
bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết định gia hạn điều tra, quyết định gia hạn tạm
giam; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;
d) Quyết định phê chuẩn, quyết định
không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra;
đ) Quyết định hủy bỏ các quyết định
không có căn cứ và trái pháp luật của Cơ quan điều tra;
e) Quyết định chuyển vụ án;
g) Quyết định việc truy tố, quyết
định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định trưng cầu giám định;
h) Quyết định tạm đình chỉ hoặc
đình chỉ vụ án, quyết định phục hồi điều tra, quyết định xử lý vật chứng;
i) Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm
các bản án, quyết định của Toà án;
k) Cấp, thu hồi giấy chứng nhận
người bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc
thẩm quyền của Viện kiểm sát.
3. Khi được phân công thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối
với vụ án hình sự, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn
được quy định tại khoản 2 Điều này.
4. Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của
mình.
Điều 37. Nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Kiểm sát viên
1. Kiểm sát viên được phân công thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng
đối với vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát
các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra;
b) Đề ra yêu
cầu điều tra;
c) Triệu tập và hỏi cung bị can;
triệu tập và lấy lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
d) Kiểm sát
việc bắt, tạm giữ, tạm giam;
đ) Tham gia phiên toà; đọc cáo trạng,
quyết định của Viện kiểm sát liên quan đến việc giải quyết vụ án; hỏi, đưa ra
chứng cứ và thực hiện việc luận tội; phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ
án, tranh luận với những người tham gia tố tụng tại phiên toà;
e) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong hoạt động xét xử của Tòa án, của những người tham gia tố tụng và kiểm sát
các bản án, quyết định của Toà án;
g) Kiểm sát việc thi hành bản án,
quyết định của Toà án;
h) Thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn
khác thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát theo sự phân công của Viện trưởng Viện
kiểm sát.
2. Kiểm sát viên phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật và trước Viện trưởng Viện kiểm sát về những hành vi và
quyết định của mình.
Điều 38. Nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Chánh án, Phó Chánh án Tòa án
1. Chánh án Toà án có những nhiệm
vụ và quyền hạn sau đây:
a) Tổ chức công tác xét xử của Toà
án;
b) Quyết định phân công Phó Chánh
án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm giải quyết, xét xử vụ án hình sự; quyết định
phân công Thư ký Tòa án tiến hành tố tụng đối với vụ án hình sự;
c) Quyết định thay đổi Thẩm phán,
Hội thẩm, Thư ký Tòa án trước khi mở phiên tòa;
d) Kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án theo quy định của
Bộ luật này;
đ) Ra quyết định thi hành án hình
sự;
e) Quyết định hoãn chấp hành hình
phạt tù;
g) Quyết định tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt tù;
h) Quyết định xoá án tích;
i) Giải quyết khiếu nại, tố cáo
thuộc thẩm quyền của Tòa án.
Khi Chánh án Tòa án vắng mặt, một
Phó Chánh án được Chánh án uỷ nhiệm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án.
Phó Chánh án phải chịu trách nhiệm trước Chánh án về nhiệm vụ được giao.
2. Khi tiến hành việc giải quyết vụ
án hình sự, Chánh án Tòa án có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc
huỷ bỏ biện pháp tạm giam; quyết định xử lý vật chứng;
b) Quyết định chuyển vụ án;
c) Cấp, thu hồi giấy chứng nhận
người bào chữa; ra các quyết định và tiến hành các hoạt động tố tụng khác thuộc
thẩm quyền của Tòa án.
3. Khi được
phân công giải quyết, xét xử vụ án hình sự, Phó Chánh án Toà án có các nhiệm vụ
và quyền hạn quy định tại khoản 2 Điều này.
4. Chánh án, Phó Chánh án Toà án
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.
Điều 39. Nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm của Thẩm phán
1. Thẩm phán được phân công giải
quyết, xét xử vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước
khi mở phiên toà;
b) Tham gia xét xử các vụ án hình
sự ;
c) Tiến hành các hoạt động tố tụng
và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử;
d) Tiến hành các hoạt động tố tụng
khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh án Tòa án.
2. Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa, ngoài những nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại khoản 1 Điều này
còn có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Quyết định
áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật này;
b) Quyết định trả hồ sơ để điều
tra bổ sung;
c) Quyết định đưa vụ án ra xét xử;
quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án;
d) Quyết định triệu tập những người
cần xét hỏi đến phiên toà;
đ) Tiến hành các hoạt động tố tụng
khác thuộc thẩm quyền của Toà án theo sự phân công của Chánh án Toà án.
3. Thẩm phán giữ chức vụ Chánh
tòa, Phó Chánh tòa Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao có quyền cấp, thu hồi
giấy chứng nhận người bào chữa.
4. Thẩm phán phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.
Điều 40. Nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Hội thẩm
1. Hội thẩm được phân công xét xử
vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước
khi mở phiên toà;
b) Tham gia xét xử các vụ án hình
sự theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm;
c) Tiến hành các hoạt động tố tụng
và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử.
2. Hội thẩm phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình.
Điều 41. Nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Thư ký Tòa án
1. Thư ký Tòa án được phân công tiến
hành tố tụng đối với vụ án hình sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Phổ biến nội quy phiên toà;
b) Báo cáo với Hội đồng xét xử
danh sách những người được triệu tập đến phiên toà;
c) Ghi biên bản phiên toà;
d) Tiến hành các hoạt động tố tụng
khác thuộc thẩm quyền của Tòa án theo sự phân công của Chánh án Tòa án.
2. Thư ký Tòa án phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật và trước Chánh án Tòa án về những hành vi của mình.
Điều 42. Những trường
hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng
Người tiến hành tố tụng phải từ chối
tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
1. Họ đồng thời là người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án; là người đại diện hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị
can, bị cáo;
2. Họ đã tham gia với tư cách là
người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch trong vụ án
đó;
3. Có căn cứ rõ ràng khác để cho rằng
họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm vụ.
Điều 43. Quyền đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng
Những người sau đây có quyền đề
nghị thay đổi người tiến hành tố tụng:
1. Kiểm sát viên;
2. Bị can, bị cáo, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện hợp pháp của họ;
3. Người bào chữa, người bảo vệ quyền
lợi của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự.
Điều 44. Thay đổi Điều
tra viên
1. Điều tra viên phải từ chối tiến
hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong những trường hợp
quy định tại Điều 42 của Bộ luật này;
b) Đã tiến hành tố tụng trong vụ
án đó với tư cách là Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm hoặc Thư ký Tòa án.
2. Việc thay đổi Điều tra viên do
Thủ trưởng Cơ quan điều tra quyết định.
Nếu Điều tra viên là Thủ trưởng Cơ
quan điều tra mà thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này
thì việc điều tra vụ án do Cơ quan điều tra cấp trên trực tiếp tiến hành.
Điều 45. Thay đổi
Kiểm sát viên
1. Kiểm sát viên phải từ chối tiến
hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong những trường hợp
quy định tại Điều 42 của Bộ luật này;
b) Đã tiến hành tố tụng trong vụ
án đó với tư cách là Điều tra viên, Thẩm phán, Hội thẩm hoặc Thư ký Tòa án.
2. Việc thay
đổi Kiểm sát viên trước khi mở phiên toà do Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp
quyết định.
Nếu Kiểm sát viên bị thay đổi là
Viện trưởng Viện kiểm sát thì do Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp
quyết định.
Trong trường hợp phải thay đổi Kiểm
sát viên tại phiên toà thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà.
Việc cử Kiểm sát viên khác do Viện
trưởng Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp
quyết định.
Điều 46. Thay đổi
Thẩm phán, Hội thẩm
1. Thẩm phán, Hội thẩm phải từ chối
tham gia xét xử hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong những trường hợp
quy định tại Điều 42 của Bộ luật này;
b) Họ cùng trong một Hội đồng xét
xử và là người thân thích với nhau;
c) Đã tham gia xét xử sơ thẩm hoặc
phúc thẩm hoặc tiến hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án.
2. Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm
trước khi mở phiên toà do Chánh án Toà án quyết định. Nếu Thẩm phán bị thay đổi
là Chánh án thì do Chánh án Toà án cấp trên trực tiếp quyết định.
Việc thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm
tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định trước khi bắt đầu xét hỏi bằng cách
biểu quyết tại phòng nghị án. Khi xem xét thành viên nào thì thành viên đó được
trình bày ý kiến của mình, Hội đồng quyết định theo đa số.
Trong trường hợp phải thay đổi Thẩm
phán, Hội thẩm tại phiên toà, thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà.
Việc cử thành viên mới của Hội đồng
xét xử do Chánh án Toà án quyết định.
Điều 47. Thay đổi
Thư ký Tòa án
1. Thư ký Tòa án phải từ chối tiến
hành tố tụng hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong những trường hợp
quy định tại Điều 42 của Bộ luật này;
b) Đã tiến hành tố tụng trong vụ
án đó với tư cách là Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thẩm phán hoặc Hội thẩm.
2. Việc thay đổi Thư ký Tòa án trước
khi mở phiên toà do Chánh án Toà án quyết định.
Việc thay đổi Thư ký Tòa án tại
phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định.
Trong trường hợp phải thay đổi Thư
ký Toà án tại phiên toà, thì Hội đồng xét xử ra quyết định hoãn phiên toà.
Việc cử Thư ký Tòa án khác do
Chánh án Toà án quyết định.
Chương IV
NGƯỜI THAM GIA TỐ TỤNG
Điều 48. Người bị tạm giữ
1. Người bị tạm giữ là người bị bắt trong trường
hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người
phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ.
2. Người bị tạm giữ có quyền:
a) Được biết lý do mình bị tạm giữ;
b) Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
c) Trình bày lời khai;
d) Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Khiếu nại về việc tạm giữ, quyết định, hành
vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Người bị tạm giữ có nghĩa vụ thực hiện các
quy định về tạm giữ theo quy định của pháp luật.
Điều 49. Bị can
1. Bị can là người đã bị khởi tố về hình sự.
2. Bị can có quyền:
a) Được biết mình bị khởi tố về tội gì;
b) Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
c) Trình bày lời khai;
d) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
đ) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
e) Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
g) Được nhận quyết định khởi tố; quyết định áp dụng,
thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; bản kết luận điều tra; quyết định
đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án; bản
cáo trạng, quyết định truy tố; các quyết định tố tụng khác theo quy định của Bộ
luật này;
h) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Bị can phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính
đáng thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã.
Điều 50. Bị cáo
1. Bị cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa
ra xét xử.
2. Bị cáo có quyền:
a) Được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết
định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; quyết định đình chỉ vụ
án; bản án, quyết định của Tòa án; các quyết định tố tụng khác theo quy định của
Bộ luật này;
b) Tham gia phiên toà;
c) Được giải thích về quyền và nghĩa vụ;
d) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa;
g) Trình bày ý kiến, tranh luận tại phiên tòa;
h) Nói lời sau cùng trước khi nghị án;
i) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án;
k) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập của
Toà án; trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng thì có thể bị áp giải;
nếu bỏ trốn thì bị truy nã.
Điều 51. Người bị hại
1. Người bị hại là người bị thiệt hại về thể chất,
tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra.
2. Người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của
họ có quyền:
a) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b) Được thông báo về kết quả điều tra;
c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
d) Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm
bồi thường;
đ) Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh
luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
e) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; kháng cáo bản án, quyết định của
Toà án về phần bồi thường cũng như về hình phạt đối với bị cáo.
3. Trong trường hợp vụ án
được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều
105 của Bộ luật này thì người bị hại hoặc người đại
diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên toà.
4. Người bị hại phải có mặt theo giấy triệu tập
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; nếu từ chối khai báo mà không có
lý do chính đáng thì có thể phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật
hình sự.
5. Trong trường hợp người bị hại chết thì người
đại diện hợp pháp của họ có những quyền quy định tại Điều này.
Điều 52. Nguyên đơn dân sự
1. Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức
bị thiệt hại do tội phạm gây ra và có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
2. Nguyên đơn dân sự hoặc người đại diện hợp
pháp của họ có quyền:
a) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b) Được thông báo về kết quả điều tra;
c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
d) Đề nghị mức bồi thường và các biện pháp bảo đảm
bồi thường;
đ) Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh
luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn;
e) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
g) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần
bồi thường thiệt hại.
3. Nguyên đơn dân sự phải có mặt theo giấy triệu
tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và trình bày trung thực những
tình tiết liên quan đến việc đòi bồi thường thiệt hại.
Điều 53. Bị đơn dân sự
1. Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan, tổ chức mà
pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành
vi phạm tội gây ra.
2. Bị đơn dân sự hoặc người đại diện hợp pháp của
họ có quyền:
a) Khiếu nại việc đòi bồi thường của nguyên đơn
dân sự;
b) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
c) Được thông báo kết quả điều tra có liên quan
đến việc đòi bồi thường;
d) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
đ) Tham gia phiên toà; trình bày ý kiến, tranh
luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn;
e) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
g) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về phần
bồi thường thiệt hại.
3. Bị đơn dân sự phải có mặt theo giấy triệu tập
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và trình bày trung thực những tình tiết
liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.
Điều 54. Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án
1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền:
a) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b) Tham gia phiên toà; phát biểu ý kiến, tranh
luận tại phiên toà để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
c) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án về những
vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình;
d) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án phải có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
và trình bày trung thực những tình tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi,
nghĩa vụ của mình.
Điều 55. Người làm chứng
1. Người nào biết được những tình tiết liên quan
đến vụ án đều có thể được triệu tập đến làm chứng.
2. Những người sau đây không được làm chứng:
a) Người bào chữa của bị can, bị cáo;
b) Người do có nhược điểm về tâm thần hoặc thể
chất mà không có khả năng nhận thức được những tình tiết của vụ án hoặc không
có khả năng khai báo đúng đắn.
3. Người làm chứng có quyền:
a) Yêu cầu cơ quan triệu tập
họ bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của mình khi tham gia tố tụng;
b) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
c) Được cơ quan triệu tập thanh toán chi phí đi
lại và những chi phí khác theo quy định của pháp luật.
4. Người làm chứng có nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập của Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Toà án; trong trường hợp cố ý không đến mà không có lý do
chính đáng và việc vắng mặt của họ gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố, xét
xử thì có thể bị dẫn giải;
b) Khai trung thực tất cả những tình tiết mà
mình biết về vụ án.
Người làm chứng từ chối hoặc trốn tránh việc
khai báo mà không có lý do chính đáng, thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 308 của Bộ luật hình sự; khai báo gian dối thì phải chịu
trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật hình sự.
Điều 56. Người bào chữa
1. Người bào chữa có thể là:
a) Luật sư;
b) Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo;
c) Bào chữa viên nhân dân.
2. Những người sau đây không được bào chữa:
a) Người đã tiến hành tố tụng
trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong
vụ án đó;
b) Người tham gia trong vụ án đó với tư cách là
người làm chứng, người giám định hoặc người phiên dịch.
3. Một người bào chữa có thể bào chữa cho nhiều
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong cùng một vụ án, nếu quyền và lợi ích của
họ không đối lập nhau. Nhiều người bào chữa có thể bào chữa cho một người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo.
4. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được
đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ liên quan đến việc bào chữa, Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải xem xét, cấp giấy chứng nhận người
bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận thì phải
nêu rõ lý do.
Đối với trường hợp tạm giữ người thì trong thời
hạn 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị của người bào chữa kèm theo giấy tờ
liên quan đến việc bào chữa, Cơ quan điều tra phải xem xét, cấp giấy chứng nhận
người bào chữa để họ thực hiện việc bào chữa. Nếu từ chối cấp giấy chứng nhận
thì phải nêu rõ lý do.
Điều 57. Lựa chọn và thay đổi người
bào chữa
1. Người bào chữa do người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn.
2. Trong những trường hợp
sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người
bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật
sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho
thành viên của tổ chức mình:
a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có
mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật hình sự;
b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Trong các trường hợp quy định tại điểm a và điểm
b khoản 2 Điều này, bị can, bị cáo và người đại diện hợp pháp của họ vẫn có quyền
yêu cầu thay đổi hoặc từ chối người bào chữa.
3. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân
dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức
mình.
Điều 58. Quyền và nghĩa vụ của
người bào chữa
1. Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố
bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều
82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định
tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh
quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố
tụng từ khi kết thúc điều tra.
2. Người bào chữa có quyền:
a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ,
khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người bị tạm giữ,
bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt
động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến
người mà mình bào chữa;
b) Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời
gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can;
c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người
giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này;
d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên
quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của
những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác;
đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
e) Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang
bị tạm giam;
g) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu
trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo
quy định của pháp luật;
h) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà;
i) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng;
k) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị
cáo là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất
quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 của Bộ luật này.
3. Người bào chữa có nghĩa vụ:
a) Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để
làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội,
những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Tùy theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được
tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao
cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật
đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo
quy định tại Điều 95 của Bộ luật này;
b) Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt
pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
c) Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính
đáng;
d) Tôn trọng sự thật và
pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo
gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;
đ) Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án;
e) Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biết
được khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao
chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
4. Người bào chữa làm trái pháp luật thì tùy
theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận người bào chữa, xử
lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây
thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Điều 59. Người bảo vệ quyền lợi của
đương sự
1. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hình sự có quyền nhờ luật sư,
bào chữa viên nhân dân hoặc người khác được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Toà án chấp nhận bảo vệ quyền lợi cho mình.
2. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự được tham
gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
3. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có quyền:
a) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu;
b) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu
trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự sau khi kết
thúc điều tra theo quy định của pháp luật;
c) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà; xem
biên bản phiên tòa;
d) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ
quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Người bảo vệ quyền lợi của người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này.
Đối với đương sự là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người bảo vệ quyền lợi của họ có
quyền có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của người mà mình bảo vệ;
kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa
vụ của người mà mình bảo vệ.
4. Người bảo vệ quyền lợi của đương sự có nghĩa
vụ:
a) Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để
góp phần làm rõ sự thật của vụ án;
b) Giúp đương sự về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của họ.
Điều 60. Người giám định
1. Người giám định là người có kiến thức cần thiết
về lĩnh vực cần giám định được cơ quan tiến hành tố tụng trưng cầu theo quy định
của pháp luật.
2. Người giám định có quyền:
a) Tìm hiểu tài liệu của vụ án có liên quan đến
đối tượng phải giám định;
b) Yêu cầu cơ quan trưng cầu giám định cung cấp
những tài liệu cần thiết cho việc kết luận;
c) Tham dự vào việc hỏi cung, lấy lời khai và đặt
câu hỏi về những vấn đề có liên quan đến đối tượng giám định;
d) Từ chối việc thực hiện giám định trong trường
hợp thời gian không đủ để tiến hành giám định, các tài liệu cung cấp không đủ
hoặc không có giá trị để kết luận, nội dung yêu cầu giám định vượt quá phạm vi
hiểu biết chuyên môn của mình;
đ) Ghi riêng ý kiến kết luận của mình vào bản kết
luận chung nếu không thống nhất với kết luận chung trong trường hợp giám định
do một nhóm người giám định tiến hành.
3. Người giám định phải có mặt theo giấy triệu tập
của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án; không được tiết lộ bí mật điều tra
mà họ biết được khi tham gia tố tụng với tư cách là người giám định.
Người giám định từ chối kết luận giám định mà
không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều
308 của Bộ luật hình sự. Người giám định kết luận gian dối thì phải chịu
trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật hình sự.
4. Người giám định phải từ chối tham gia tố tụng
hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại
khoản 1 và khoản 3 Điều 42 của Bộ luật này;
b) Đã tiến hành tố tụng với tư cách là Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm,
Thư ký Tòa án hoặc đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng,
người phiên dịch trong vụ án đó.
Việc thay đổi người giám định do cơ quan trưng cầu
quyết định.
Điều 61. Người phiên dịch
1. Người phiên dịch do Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát hoặc Toà án yêu cầu trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng
được tiếng Việt.
2. Người phiên dịch phải có mặt theo giấy triệu
tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và phải dịch trung thực; không
được tiết lộ bí mật điều tra; nếu dịch gian dối thì người phiên dịch phải chịu
trách nhiệm hình sự theo Điều 307 của Bộ luật hình sự.
3. Người phiên dịch phải từ chối tham gia tố tụng
hoặc bị thay đổi, nếu:
a) Thuộc một trong những trường hợp quy định tại
khoản 1 và khoản 3 Điều 42 của Bộ luật này;
b) Đã tiến hành tố tụng với tư cách là Thủ trưởng,
Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát, Kiểm sát viên, Chánh án, Phó Chánh án Tòa án, Thẩm phán, Hội thẩm,
Thư ký Tòa án hoặc đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng,
người giám định trong vụ án đó.
Việc thay đổi người phiên dịch do cơ quan yêu cầu
quyết định.
4. Những quy định của Điều này cũng được áp dụng
đối với người biết dấu hiệu của người câm và người điếc.
Điều 62. Trách nhiệm giải thích
và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng
Cơ quan, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm
giải thích và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng
theo quy định của Bộ luật này. Việc giải thích phải được ghi vào biên bản.
Chương V
CHỨNG CỨ
Điều 63. Những vấn đề phải chứng
minh trong vụ án hình sự
Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải chứng minh:
1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời
gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;
2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi
hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục
đích, động cơ phạm tội;
3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị
can, bị cáo;
4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra.
Điều 64. Chứng cứ
1. Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người
thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải
quyết đúng đắn vụ án.
2. Chứng cứ được xác định bằng:
a) Vật chứng;
b) Lời khai của người làm chứng, người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;
c) Kết luận giám định;
d) Biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các
tài liệu, đồ vật khác.
Điều 65. Thu thập chứng cứ
1. Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Toà án có quyền triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe
họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến
hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật
này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những
tình tiết làm sáng tỏ vụ án.
2. Những người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức
hoặc bất cứ cá nhân nào đều có thể đưa ra tài liệu, đồ vật và trình bày những vấn
đề có liên quan đến vụ án.
Điều 66. Đánh giá chứng cứ
1. Mỗi chứng cứ phải được đánh giá để xác định
tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định các chứng cứ thu
thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự.
2. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Hội
thẩm xác định và đánh giá mọi chứng cứ với đầy đủ tinh thần trách nhiệm, sau
khi nghiên cứu một cách tổng hợp, khách quan, toàn diện và đầy đủ tất cả tình tiết
của vụ án.
Điều 67. Lời khai của người làm
chứng
1. Người làm chứng trình bày những gì mà họ biết
về vụ án, nhân thân của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị
hại, quan hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người
bị hại, người làm chứng khác và trả lời những câu hỏi đặt ra.
2. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết
do người làm chứng trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết
đó.
Điều 68. Lời khai của người bị hại
1. Người bị hại trình bày về những tình tiết của
vụ án, quan hệ giữa họ với người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và trả
lời những câu hỏi đặt ra.
2. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết
do người bị hại trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao biết được tình tiết
đó.
Điều 69. Lời khai của nguyên đơn
dân sự, bị đơn dân sự
1. Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trình bày về
những tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra.
2. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết
do nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự trình bày, nếu họ không thể nói rõ vì sao
biết được tình tiết đó.
Điều 70. Lời khai của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
1. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án trình bày về những tình tiết trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của
họ.
2. Không được dùng làm chứng cứ những tình tiết
do người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày, nếu họ không thể
nói rõ vì sao biết được tình tiết đó.
Điều 71. Lời khai của người bị bắt,
bị tạm giữ
Người bị bắt, bị tạm giữ trình bày về những tình
tiết liên quan đến việc họ bị nghi thực hiện tội phạm.
Điều 72. Lời khai của bị can, bị
cáo
1. Bị can, bị cáo trình bày về những tình tiết của
vụ án.
2. Lời nhận tội của bị can, bị cáo chỉ có thể được
coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác của vụ án.
Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo
làm chứng cứ duy nhất để kết tội.
Điều 73. Kết luận giám định
1. Người giám định kết luận về vấn đề được yêu cầu
giám định và phải chịu trách nhiệm cá nhân về kết luận đó.
Kết luận giám định phải được thể hiện bằng văn bản.
Nếu việc giám định do một nhóm người giám định
tiến hành thì tất cả các thành viên đều ký vào bản kết luận chung. Trong trường
hợp có ý kiến khác nhau thì mỗi người ghi riêng ý kiến kết luận của mình vào bản
kết luận chung.
2. Trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng
không đồng ý với kết luận giám định thì phải nêu rõ lý do, nếu kết luận chưa rõ
hoặc chưa đầy đủ thì quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại theo thủ tục
chung.
Điều 74. Vật chứng
Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương
tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm cũng
như tiền bạc và vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội.
Điều 75. Thu thập và bảo quản vật
chứng
1. Vật chứng cần được thu thập kịp thời, đầy đủ,
được mô tả đúng thực trạng vào biên bản và đưa vào hồ sơ vụ án.
Trong trường hợp vật chứng không thể đưa vào hồ
sơ vụ án thì phải chụp ảnh và có thể ghi hình để đưa vào hồ sơ vụ án. Vật chứng
phải được niêm phong, bảo quản.
2. Vật chứng phải được bảo
quản nguyên vẹn, không để mất mát, lẫn lộn và hư hỏng. Việc niêm phong, bảo quản
vật chứng được thực hiện như sau:
a) Đối với vật chứng cần được niêm phong thì phải
niêm phong ngay sau khi thu thập. Việc niêm phong, mở niêm phong phải được tiến
hành theo quy định của pháp luật và phải lập biên bản để đưa vào hồ sơ vụ án;
b) Vật chứng là tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá
quý, đồ cổ, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ phải được giám định
ngay sau khi thu thập và phải chuyển ngay để bảo quản tại ngân hàng hoặc các cơ
quan chuyên trách khác;
c) Đối với vật chứng không thể đưa về cơ quan tiến
hành tố tụng để bảo quản thì cơ quan tiến hành tố tụng giao vật chứng đó cho chủ
sở hữu, người quản lý hợp pháp đồ vật, tài sản hoặc người thân thích của họ hoặc
chính quyền địa phương, cơ quan, tổ chức nơi có vật chứng bảo quản;
d) Đối với vật chứng là hàng hoá mau hỏng hoặc
khó bảo quản nếu không thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều
76 của Bộ luật này thì cơ quan có thẩm quyền quy định tại khoản
1 Điều 76 của Bộ luật này trong phạm vi quyền hạn của mình quyết định bán
theo quy định của pháp luật và chuyển tiền đến tài khoản tạm giữ của cơ quan có
thẩm quyền tại kho bạc nhà nước để quản lý;
đ) Đối với vật chứng đưa về cơ quan tiến hành tố
tụng bảo quản thì cơ quan Công an có trách nhiệm bảo quản vật chứng trong giai
đoạn điều tra, truy tố; cơ quan thi hành án có trách nhiệm bảo quản vật chứng
trong giai đoạn xét xử và thi hành án.
3. Người có trách nhiệm bảo quản vật chứng mà để
mất mát, hư hỏng, phá huỷ niêm phong, tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất
giấu hoặc hủy hoại vật chứng của vụ án, thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm
mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 310 của Bộ luật hình sự; trong trường hợp thêm, bớt, sửa đổi,
đánh tráo, huỷ, làm hư hỏng vật chứng của vụ án nhằm làm sai lệch hồ sơ vụ án
thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 300 của
Bộ luật hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của
pháp luật.
Điều 76. Xử lý vật chứng
1. Việc xử lý vật chứng do Cơ quan điều tra quyết
định, nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn điều tra; do Viện kiểm sát quyết định,
nếu vụ án được đình chỉ ở giai đoạn truy tố; do Toà án hoặc Hội đồng xét xử quyết
định ở giai đoạn xét xử. Việc thi hành các quyết định về xử lý vật chứng phải
được ghi vào biên bản.
2. Vật chứng được xử lý như sau:
a) Vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật
cấm lưu hành thì bị tịch thu, sung quỹ Nhà nước hoặc tiêu huỷ;
b) Vật chứng là những vật, tiền bạc thuộc sở hữu
của Nhà nước, tổ chức, cá nhân bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc dùng làm công
cụ, phương tiện phạm tội thì trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp
pháp; trong trường hợp không xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp
pháp thì sung quỹ Nhà nước;
c) Vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội
mà có thì bị tịch thu sung quỹ Nhà nước;
d) Vật chứng là hàng hóa mau hỏng hoặc khó bảo
quản thì có thể được bán theo quy định của pháp luật;
đ) Vật chứng không có giá trị hoặc không sử dụng
được thì bị tịch thu và tiêu huỷ.
3. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ
quan có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều này có quyền quyết định trả lại những
vật chứng quy định tại điểm b khoản 2 Điều này cho chủ sở hữu hoặc người quản
lý hợp pháp, nếu xét thấy không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án.
4. Trong trường hợp có tranh chấp về quyền sở hữu
đối với vật chứng thì giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Điều 77. Biên bản về hoạt động điều
tra và xét xử
Những tình tiết được ghi trong các biên bản bắt
người, khám xét, khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, đối chất, nhận dạng,
thực nghiệm điều tra, biên bản phiên toà và biên bản về các hoạt động tố tụng
khác tiến hành theo quy định của Bộ luật này có thể được coi là chứng cứ.
Điều 78. Các tài liệu, đồ vật
khác trong vụ án
Những tình tiết có liên quan đến vụ án được ghi
trong các tài liệu cũng như đồ vật do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp có thể
được coi là chứng cứ.
Trong trường hợp những tài liệu, đồ vật này có
những dấu hiệu quy định tại Điều 74 của Bộ luật này thì được
coi là vật chứng.
Chương VI
NHỮNG BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN
Điều 79. Các biện pháp và căn cứ
áp dụng biện pháp ngăn chặn
Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ
chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án, Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có
thẩm quyền theo quy định của Bộ luật này có thể áp dụng một trong những biện
pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo
lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Điều 80. Bắt bị can, bị cáo để tạm
giam
1. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị
can, bị cáo để tạm giam:
a) Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân và Viện kiểm sát quân sự các cấp;
b) Chánh án, Phó Chánh án Toà án nhân dân và Toà
án quân sự các cấp;
c) Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh
toà Tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao; Hội đồng xét xử;
d) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra
các cấp. Trong trường hợp này, lệnh bắt phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê
chuẩn trước khi thi hành.
2. Lệnh bắt phải ghi rõ ngày, tháng, năm, họ
tên, chức vụ của người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị bắt và lý do bắt.
Lệnh bắt phải có chữ ký của người ra lệnh và có đóng dấu.
Người thi hành lệnh phải đọc lệnh, giải thích lệnh,
quyền và nghĩa vụ của người bị bắt và phải lập biên bản về việc bắt.
Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó cư trú
phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người láng giềng của người
bị bắt chứng kiến. Khi tiến hành bắt người tại nơi người đó làm việc phải có đại
diện cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến. Khi tiến hành bắt người
tại nơi khác phải có sự chứng kiến của đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn
nơi tiến hành bắt người.
3. Không được bắt người vào ban đêm, trừ trường
hợp bắt khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc bắt người đang bị truy nã quy định tại
Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này.
Điều 81. Bắt người trong trường hợp
khẩn cấp
1. Trong những trường hợp sau đây thì được bắt
khẩn cấp:
a) Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn
bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy
ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm
mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn;
c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc
tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay
việc người đó trốn hoặc tiêu huỷ chứng cứ.
2. Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người
trong trường hợp khẩn cấp:
a) Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra
các cấp;
b) Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp
trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới;
c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển, khi tàu bay,
tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng.
3. Nội dung lệnh bắt và việc thi hành lệnh bắt
người trong trường hợp khẩn cấp phải theo đúng quy định tại khoản
2 Điều 80 của Bộ luật này.
4. Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải
được báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên
quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn.
Viện kiểm sát phải kiểm sát chặt chẽ căn cứ bắt
khẩn cấp quy định tại Điều này. Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát phải
trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc
quyết định không phê chuẩn.
Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề
nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện kiểm sát
phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện kiểm sát
quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người
bị bắt.
Điều 82. Bắt người phạm tội quả
tang hoặc đang bị truy nã
1. Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc
ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt, cũng như người
đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và giải ngay đến cơ quan
Công an, Viện kiểm sát hoặc Uỷ ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải
lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
2. Khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người
đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị
bắt.
Điều 83. Những việc cần làm ngay
sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt
1. Sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt trong trường
hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang, Cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và
trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.
2. Đối với người bị truy nã thì sau khi lấy lời
khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra
quyết định truy nã để đến nhận người bị bắt.
Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định
truy nã phải ra ngay quyết định đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã
ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời
khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và
thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết.
Sau khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết
định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh
tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra nhận người
bị bắt. Sau khi nhận được lệnh tạm giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có
trách nhiệm giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất.
Điều 84. Biên bản về việc bắt người
1. Người thi hành lệnh bắt trong mọi trường hợp
đều phải lập biên bản.
Biên bản phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm
bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi
hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị
bắt.
Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những
người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến
phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội
dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên.
Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu của người bị bắt
phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này.
2. Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên giao
và nhận phải lập biên bản.
Ngoài những điểm đã quy định tại khoản 1 Điều này,
biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ
vật, tài liệu đã thu thập được, tình trạng sức khoẻ của người bị bắt và mọi
tình tiết xảy ra lúc giao nhận.
Điều 85. Thông báo về việc bắt
Người ra lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị
bắt phải thông báo ngay cho gia đình người đã bị bắt, chính quyền xã, phường,
thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu
thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra
lệnh bắt, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay.
Điều 86. Tạm giữ
1. Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người
bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu
thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.
2. Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy
định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng
vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ.
Người thi hành quyết định tạm giữ phải giải
thích quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ quy định tại Điều
48 của Bộ luật này.
3. Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi ra quyết định
tạm giữ, quyết định tạm giữ phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp. Nếu xét
thấy việc tạm giữ không có căn cứ hoặc không cần thiết thì Viện kiểm sát ra quyết
định hủy bỏ quyết định tạm giữ và người ra quyết định tạm giữ phải trả tự do
ngay cho người bị tạm giữ.
Quyết định tạm giữ phải ghi rõ lý do tạm giữ,
ngày hết hạn tạm giữ và phải giao cho người bị tạm giữ một bản.
Điều 87. Thời hạn tạm giữ
1. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ
khi Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
2. Trong trường hợp cần thiết,
người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ, nhưng không quá ba ngày.
Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần
thứ hai nhưng không quá ba ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ đều phải được
Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn; trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề
nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải
ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.
3. Trong khi tạm giữ, nếu không đủ căn cứ khởi tố
bị can thì phải trả tự do ngay cho người bị tạm giữ.
4. Thời gian tạm giữ được
trừ vào thời hạn tạm giam. Một ngày tạm giữ được tính bằng một ngày tạm giam.
Điều 88. Tạm giam
1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can,
bị cáo trong những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng;
phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội
ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn
cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc
có thể tiếp tục phạm tội.
2. Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc
đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng
mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác,
trừ những trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo bỏ trốn
và bị bắt theo lệnh truy nã;
b) Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác nhưng tiếp tục phạm tội hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều
tra, truy tố, xét xử;
c) Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc
gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại
đến an ninh quốc gia.
3. Những người có thẩm quyền
ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam của những người
được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này
phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước
khi thi hành. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được lệnh tạm giam, đề
nghị xét phê chuẩn và hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc tạm giam, Viện kiểm
sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Viện kiểm sát
phải hoàn trả hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau khi kết thúc việc xét phê chuẩn.
4. Cơ quan ra lệnh tạm giam phải kiểm tra căn cước
của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình người bị tạm giam và cho
chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị tạm giam cư
trú hoặc làm việc biết.
Điều 89. Chế độ tạm giữ, tạm giam
Chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ đối với
người đang chấp hành hình phạt tù.
Nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận
quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được thực hiện theo quy định của
Chính phủ.
Điều 90. Việc chăm nom người thân
thích và bảo quản tài sản của người bị tạm giữ, tạm giam
1. Khi người bị tạm giữ, tạm giam có con chưa
thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người thân thích là người tàn tật, già yếu mà
không có người chăm sóc, thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam giao
những người đó cho người thân thích chăm nom. Trong trường hợp người bị tạm giữ,
tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm
giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom.
2. Trong trường hợp người bị tạm giữ, tạm giam
có nhà hoặc tài sản khác mà không có người trông nom, bảo quản thì cơ quan ra
quyết tạm giữ, lệnh tạm giam phải áp dụng những biện pháp trông nom, bảo quản
thích đáng.
3. Cơ quan ra quyết định tạm giữ, lệnh tạm giam
thông báo cho người bị tạm giữ, tạm giam biết những biện pháp đã được áp dụng.
Điều 91. Cấm đi khỏi nơi cư trú
1. Cấm đi khỏi nơi cư trú là biện pháp ngăn chặn
có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng nhằm bảo đảm sự
có mặt của họ theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án.
2. Những người quy định tại khoản
1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có
quyền ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.
Bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan không đi
khỏi nơi cư trú của mình, phải có mặt đúng thời gian, địa điểm ghi trong giấy
triệu tập.
Người ra lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú phải thông
báo về việc áp dụng biện pháp này cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị
can, bị cáo cư trú và giao bị can, bị cáo cho chính quyền xã, phường, thị trấn
để quản lý, theo dõi họ. Trong trường hợp bị can, bị cáo có lý do chính đáng phải
tạm thời đi khỏi nơi cư trú thì phải được sự đồng ý của chính quyền xã, phường,
thị trấn nơi người đó cư trú và phải có giấy phép của cơ quan đã áp dụng biện
pháp ngăn chặn đó.
3. Bị can, bị cáo vi phạm lệnh cấm đi khỏi nơi
cư trú sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Điều 92. Bảo lĩnh
1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế
biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
2. Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị
cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai
người. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức
của mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không
để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo
theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy
cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết
của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
3. Những người quy định tại khoản
1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có
quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.
4. Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải
là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo
lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo
lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.
5. Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm
nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường
hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác.
Điều 93. Đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm
1. Đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức
độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình trạng tài sản của
bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập.
2. Những người quy định tại khoản
1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có
quyền ra quyết định về việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Quyết
định của những người quy định tại điểm d khoản 1 Điều 80 của Bộ
luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
3. Cơ quan ra quyết định về việc đặt tiền hoặc
tài sản có giá trị để bảo đảm phải lập biên bản ghi rõ số lượng tiền, tên và
tình trạng tài sản đã được đặt và giao cho bị can hoặc bị cáo một bản.
4. Trong trường hợp bị can, bị cáo đã được Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính
đáng thì số tiền hoặc tài sản đã đặt sẽ bị sung quỹ Nhà nước và trong trường hợp
này bị can, bị cáo sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Trong trường hợp bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ
các nghĩa vụ đã cam đoan thì cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm trả lại
cho họ số tiền hoặc tài sản đã đặt.
5. Trình tự, thủ tục, mức tiền hoặc giá trị tài
sản phải đặt để bảo đảm, việc tạm giữ, hoàn trả, không hoàn trả số tiền hoặc
tài sản đã đặt được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Điều 94. Huỷ bỏ hoặc thay thế biện
pháp ngăn chặn
1. Khi vụ án bị đình chỉ thì mọi biện pháp ngăn
chặn đã áp dụng đều phải được huỷ bỏ.
2. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án huỷ bỏ
biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn cần thiết hoặc có thể thay thế bằng một
biện pháp ngăn chặn khác.
Đối với những biện pháp ngăn chặn do Viện kiểm
sát phê chuẩn thì việc huỷ bỏ hoặc thay thế phải do Viện kiểm sát quyết định.
Chương VII
BIÊN BẢN, THỜI HẠN, ÁN
PHÍ
Điều 95. Biên bản
1. Khi tiến hành các hoạt động tố tụng, bắt buộc
phải lập biên bản theo mẫu quy định thống nhất.
Trong biên bản ghi rõ địa điểm, ngày, giờ,
tháng, năm tiến hành tố tụng, thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc, nội dung
của hoạt động tố tụng, những người tiến hành, tham gia hoặc có liên quan đến hoạt
động tố tụng, những khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị của họ.
2. Biên bản phiên toà phải có chữ ký của chủ toạ
phiên toà và Thư ký Tòa án. Biên bản các hoạt động tố tụng khác phải có chữ ký
của những người mà Bộ luật này quy định trong từng trường hợp. Những điểm sửa
chữa trong biên bản cũng phải được xác nhận bằng chữ ký của họ.
Điều 96. Tính thời hạn
1. Thời hạn mà Bộ luật này quy định được tính
theo giờ, ngày và tháng. Đêm được tính từ 22 giờ đến 6 giờ sáng ngày hôm sau.
Khi tính thời hạn theo ngày thì thời hạn sẽ hết
vào lúc 24 giờ ngày cuối cùng của thời hạn. Khi tính thời hạn theo tháng thì thời
hạn hết vào ngày trùng của tháng sau; nếu tháng đó không có ngày trùng, thì thời
hạn hết vào ngày cuối cùng của tháng đó; nếu thời hạn hết vào ngày nghỉ thì
ngày làm việc đầu tiên tiếp theo được tính là ngày cuối cùng của thời hạn.
Khi tính thời hạn tạm giữ, tạm giam thì thời hạn
hết vào ngày kết thúc thời hạn được ghi trong lệnh. Nếu thời hạn được tính bằng
tháng thì một tháng được tính là ba mươi ngày.
2. Trong trường hợp có đơn hoặc giấy tờ được gửi
qua bưu điện thì thời hạn được tính theo dấu bưu điện nơi gửi. Nếu có đơn hoặc
giấy tờ được gửi qua Ban giám thị trại tạm giam, trại giam thì thời hạn được
tính từ ngày Ban giám thị trại tạm giam, trại giam nhận đơn hoặc giấy tờ đó.
Điều 97. Phục hồi thời hạn
Nếu quá hạn mà có lý do chính đáng thì cơ quan
tiến hành tố tụng phải phục hồi lại thời hạn.
Điều 98. Án phí
án phí là tất cả chi phí để tiến hành tố tụng
hình sự bao gồm tiền thù lao cho người làm chứng, người bị hại, người giám định,
người phiên dịch, người bào chữa trong trường hợp cơ quan tiến hành tố tụng chỉ
định và các khoản chi phí khác theo quy định của pháp luật; án phí dân sự trong
vụ án hình sự.
Điều 99. Trách nhiệm chịu án phí
1. án phí do người bị kết án hoặc Nhà nước chịu
theo quy định của pháp luật.
2. Người bị kết án phải trả án phí theo quyết định
của Toà án.
3. Trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu
cầu của người bị hại, nếu Toà án tuyên bố bị cáo không có tội hoặc vụ án bị
đình chỉ theo quy định tại khoản 2 Điều 105 của Bộ luật này
thì người bị hại phải trả án phí.
Phần thứ hai
KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ QUYẾT ĐỊNH VIỆC
TRUY TỐ
Chương VIII
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
Điều 100. Căn cứ khởi tố vụ án
hình sự
Chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định
có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những cơ sở sau
đây:
1. Tố giác của công dân;
2. Tin báo của cơ quan, tổ chức;
3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại
chúng;
4. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Bộ đội
biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của
Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;
5. Người phạm tội tự thú.
Điều 101. Tố giác và tin báo về
tội phạm
Công dân có thể tố giác tội phạm với Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Tòa án hoặc với các cơ quan khác, tổ chức. Nếu tố giác bằng
miệng thì cơ quan, tổ chức tiếp nhận phải lập biên bản và có chữ ký của người tố
giác.
Cơ quan, tổ chức khi phát hiện hoặc nhận được tố
giác của công dân phải báo tin ngay về tội phạm cho Cơ quan điều tra bằng văn bản.
Điều 102. Người phạm tội tự thú
Khi người phạm tội đến tự thú, cơ quan, tổ chức
tiếp nhận phải lập biên bản ghi rõ họ tên, tuổi, nghề nghiệp, chỗ ở và những lời
khai của người tự thú. Cơ quan, tổ chức tiếp nhận người phạm tội tự thú có
trách nhiệm báo ngay cho Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát.
Điều 103. Nhiệm vụ giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
1. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm
tiếp nhận đầy đủ mọi tố giác, tin báo về tội phạm do cá nhân, cơ quan, tổ chức
và kiến nghị khởi tố do cơ quan nhà nước chuyển đến. Viện kiểm sát có trách nhiệm
chuyển ngay các tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố kèm theo các
tài liệu có liên quan đã tiếp nhận cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.
2. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận
được tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, Cơ quan điều tra trong phạm
vi trách nhiệm của mình phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định việc khởi
tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự.
Trong trường hợp sự việc bị tố giác, tin báo về
tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố có nhiều tình tiết phức tạp hoặc phải kiểm tra,
xác minh tại nhiều địa điểm thì thời hạn để giải quyết tố giác và tin báo có thể
dài hơn, nhưng không quá hai tháng.
3. Kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
hoặc kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước phải được gửi cho Viện kiểm sát
cùng cấp và thông báo cho cơ quan, tổ chức đã báo tin hoặc người đã tố giác tội
phạm biết.
Cơ quan điều tra phải áp
dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ người đã tố giác tội phạm.
4. Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc giải
quyết của Cơ quan điều tra đối với tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi
tố.
Điều 104. Quyết định khởi tố vụ
án hình sự
1. Khi xác định có dấu hiệu tội phạm thì Cơ quan
điều tra phải ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Thủ trưởng đơn vị Bộ đội
biên phòng, cơ quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng
các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án trong những trường hợp
quy định tại Điều 111 của Bộ luật này.
Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố vụ án hình sự
trong trường hợp Viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án của các cơ
quan quy định tại khoản này và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố
vụ án.
Hội đồng xét xử ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu
Viện kiểm sát khởi tố vụ án hình sự nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát
hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra.
2. Quyết định khởi tố vụ án hình sự phải ghi rõ
thời gian, căn cứ khởi tố, điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng và họ
tên, chức vụ người ra quyết định.
3. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định
khởi tố vụ án hình sự, Viện kiểm sát phải gửi quyết định đó đến Cơ quan điều
tra để tiến hành điều tra; quyết định khởi tố kèm theo tài liệu liên quan đến
việc khởi tố vụ án hình sự của Cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan,
Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân
đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được gửi
tới Viện kiểm sát để kiểm sát việc khởi tố; quyết định khởi tố của Hội đồng xét
xử phải được gửi tới Viện kiểm sát để xem xét, quyết định việc điều tra; yêu cầu
khởi tố của Hội đồng xét xử được gửi cho Viện kiểm sát để xem xét, quyết định
việc khởi tố.
Điều 105. Khởi tố vụ án hình sự
theo yêu cầu của người bị hại
1. Những vụ án về các tội phạm được quy định tại
khoản 1 các điều 104, 105, 106, 108, 109, 111, 113, 121, 122,
131 và 171 của Bộ luật hình sự chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị
hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại là người chưa thành niên,
người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
2. Trong trường hợp người
đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm thì vụ án phải
được đình chỉ.
Trong trường hợp có căn cứ để xác định người đã
yêu cầu khởi tố rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng
bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát, Tòa án vẫn có thể tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố thì không có
quyền yêu cầu lại, trừ trường hợp rút yêu cầu do bị ép buộc, cưỡng bức.
Điều 106. Thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố vụ án hình sự
1. Khi có căn cứ xác định tội phạm đã khởi tố
không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm khác thì Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự.
2. Trong trường hợp Cơ quan điều tra quyết định
thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự thì trong thời hạn 24 giờ,
kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, Cơ quan
điều tra phải gửi cho Viện kiểm sát để kiểm sát việc khởi tố.
Trong trường hợp Viện kiểm sát quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự thì trong thời hạn 24 giờ, kể từ
khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, Viện kiểm sát
phải gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
Điều 107. Những căn cứ không được
khởi tố vụ án hình sự
Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một
trong những căn cứ sau đây:
1. Không có sự việc phạm tội;
2. Hành vi không cấu thành
tội phạm;
3. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
4. Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án
hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
5. Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
6. Tội phạm đã được đại xá;
7. Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.
Điều 108. Quyết định không khởi
tố vụ án hình sự
1. Khi có một trong những căn cứ quy định tại Điều 107 của Bộ luật này thì người có quyền khởi tố vụ án ra
quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố thì phải ra quyết định hủy
bỏ quyết định khởi tố và thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác hoặc
báo tin về tội phạm biết rõ lý do; nếu xét cần xử lý bằng biện pháp khác thì
chuyển hồ sơ cho cơ quan, tổ chức hữu quan giải quyết.
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định
hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu liên quan phải được gửi
cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định.
2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác hoặc báo
tin về tội phạm có quyền khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án. Thẩm quyền
và thủ tục giải quyết khiếu nại theo quy định tại Chương XXXV của Bộ luật này.
Điều 109. Quyền hạn và trách nhiệm
của Viện kiểm sát trong việc khởi tố vụ án hình sự
1. Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố vụ án hình sự, bảo đảm mọi tội
phạm được phát hiện đều phải được khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn cứ và hợp
pháp.
2. Trong trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình
sự của Cơ quan điều tra, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh
sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ thì Viện kiểm sát
ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố đó; nếu quyết định không khởi tố vụ án
hình sự của các cơ quan đó không có căn cứ, thì Viện kiểm sát hủy bỏ quyết định
đó và ra quyết định khởi tố vụ án.
3. Trong trường hợp quyết định khởi tố vụ án
hình sự của Hội đồng xét xử không có căn cứ thì Viện kiểm sát kháng nghị lên
Tòa án cấp trên.
Chương IX
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ ĐIỀU
TRA
Điều 110. Thẩm quyền điều tra
1. Cơ quan điều tra trong
Công an nhân dân điều tra tất cả các tội phạm, trừ những tội phạm thuộc thẩm
quyền điều tra của Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân và Cơ quan điều tra
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
2. Cơ quan điều tra trong Quân đội nhân dân điều
tra các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án quân sự.
3. Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tối
cao điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm tội là
cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp.
4. Cơ quan điều tra có thẩm quyền điều tra những
vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình. Trong trường hợp không
xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra thuộc thẩm quyền của
Cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.
Cơ quan điều tra cấp huyện, Cơ quan điều tra
quân sự khu vực điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm thuộc thẩm quyền
xét xử của Toà án nhân dân cấp huyện, Toà án quân sự khu vực; Cơ quan điều tra
cấp tỉnh, Cơ quan điều tra quân sự cấp quân khu điều tra những vụ án hình sự về
những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân cấp tỉnh, Toà án
quân sự cấp quân khu hoặc những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều
tra cấp dưới nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra. Cơ quan điều tra cấp trung
ương điều tra những vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức
tạp thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra
quân sự cấp quân khu nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
5. Tổ chức bộ máy, thẩm quyền cụ thể của các Cơ
quan điều tra do ủy ban thường vụ Quốc hội quy định.
Điều 111. Quyền hạn điều tra của
Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan
khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra
1. Khi phát hiện những hành vi phạm tội đến mức
phải truy cứu trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực quản lý của mình thì Bộ đội
biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển có thẩm quyền:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường
hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch người phạm tội rõ ràng, thì ra quyết
định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện
kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định
khởi tố vụ án;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng,
đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng nhưng phức tạp thì ra quyết
định khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ
cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết
định khởi tố vụ án.
2. Trong Công an nhân dân, Quân đội nhân dân,
ngoài các Cơ quan điều tra quy định tại Điều 110 của Bộ luật
này, các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra trong khi làm nhiệm vụ của mình, nếu phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm,
thì có quyền khởi tố vụ án, tiến hành những hoạt động điều tra ban đầu và chuyển
hồ sơ cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra
quyết định khởi tố vụ án.
3. Khi tiến hành hoạt động điều tra, Bộ đội biên
phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công
an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình phải thực hiện đúng nguyên tắc,
trình tự, thủ tục tố tụng đối với hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật
này. Viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động điều tra của các cơ quan này.
4. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể trong hoạt động điều
tra của Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các
cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra do Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định.
Điều 112. Nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều
tra, Viện kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu
Cơ quan điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố
bị can theo quy định của Bộ luật này;
2. Đề ra yêu cầu điều tra
và yêu cầu Cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi xét thấy cần thiết, trực tiếp
tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của Bộ luật này;
3. Yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều tra thay đổi Điều
tra viên theo quy định của Bộ luật này; nếu hành vi của Điều tra viên có dấu hiệu
tội phạm thì khởi tố về hình sự;
4. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định phê chuẩn,
quyết định không phê chuẩn các quyết định của Cơ quan điều tra theo quy định của
Bộ luật này. Trong trường hợp không phê chuẩn thì trong quyết định không phê
chuẩn phải nêu rõ lý do;
5. Huỷ bỏ các quyết định không có căn cứ và trái
pháp luật của Cơ quan điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can;
6. Quyết định việc truy tố bị can; quyết định
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Điều 113. Nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát khi kiểm sát điều tra
Khi thực hiện công tác kiểm sát điều tra, Viện
kiểm sát có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1. Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động
điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra;
2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của người
tham gia tố tụng;
3. Giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều
tra;
4. Yêu cầu Cơ quan điều tra khắc phục các vi phạm
pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Cơ quan điều tra cung cấp tài liệu
cần thiết về vi phạm pháp luật của Điều tra viên; yêu cầu Thủ trưởng Cơ quan điều
tra xử lý nghiêm minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong khi tiến hành điều
tra;
5. Kiến nghị với cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng
các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
Điều 114. Trách nhiệm của Cơ
quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát
Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện các
yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát. Đối với những yêu cầu và quyết định
quy định tại các điểm 4, 5 và 6 Điều 112 của Bộ luật này, nếu
không nhất trí, Cơ quan điều tra vẫn phải chấp hành, nhưng có quyền kiến nghị với
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày nhận
được kiến nghị của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem
xét, giải quyết và thông báo kết quả giải quyết cho cơ quan đã kiến nghị.
Điều 115. Trách nhiệm thực hiện
quyết định và yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
Những quyết định, yêu cầu của Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự phải được cơ quan, tổ chức
và công dân nghiêm chỉnh chấp hành.
Điều 116. Chuyển vụ án để điều
tra theo thẩm quyền
Trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền điều
tra của mình, Cơ quan điều tra phải đề nghị Viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định
chuyển vụ án cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền để tiếp tục điều tra; trong thời
hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
cùng cấp có trách nhiệm ra quyết định chuyển vụ án.
Việc chuyển vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi quân khu do Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu quyết định.
Điều 117. Nhập hoặc tách vụ án
hình sự để tiến hành điều tra
1. Cơ quan điều tra có thể nhập để tiến hành điều
tra trong cùng một vụ án những trường hợp bị can phạm nhiều tội, nhiều bị can
cùng tham gia một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu
tội phạm hoặc không tố giác tội phạm quy định tại Điều 313 và Điều
314 của Bộ luật hình sự.
2. Cơ quan điều tra chỉ được tách vụ án trong những
trường hợp thật cần thiết khi không thể hoàn thành sớm việc điều tra đối với tất
cả các tội phạm và nếu việc tách đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật
khách quan và toàn diện của vụ án.
3. Quyết định nhập hoặc tách vụ án hình sự phải
được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định.
Điều 118. ủy thác điều tra
Khi cần thiết, Cơ quan điều tra có thể ủy thác
cho Cơ quan điều tra khác tiến hành một số hoạt động điều tra. Quyết định ủy
thác điều tra phải ghi rõ yêu cầu cụ thể. Cơ quan điều tra được ủy thác có
trách nhiệm thực hiện đầy đủ những việc được ủy thác theo thời hạn mà Cơ quan điều
tra ủy thác yêu cầu.
Điều 119. Thời hạn điều tra
1. Thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá hai
tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm
nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng, kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.
2. Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính
chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều tra,
Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra.
Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được
gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia
hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá
hai tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được
gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể
được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
3. Thẩm quyền gia hạn điều tra của Viện kiểm sát
được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì Viện kiểm
sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra. Trong
trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng thì Viện kiểm
sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ
nhất và lần thứ hai. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh,
cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp
quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng thì Viện kiểm
sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ
nhất; Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn
điều tra lần thứ hai. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh,
cấp quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp
quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra
lần thứ nhất và lần thứ hai; Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân
sự trung ương gia hạn điều tra lần thứ ba.
4. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều
tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn điều tra thuộc thẩm quyền của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.
5. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời
hạn gia hạn điều tra đã hết, nhưng do tính chất rất phức tạp của vụ án mà chưa
thể kết thúc việc điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thể
gia hạn thêm một lần không quá bốn tháng.
Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nữa không
quá bốn tháng.
6. Khi đã hết thời hạn gia hạn điều tra mà không
chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì Cơ quan điều tra phải ra quyết
định đình chỉ điều tra.
Điều 120. Thời hạn tạm giam để điều
tra
1. Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không
quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội
phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức
tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để
thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết
hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm
giam.
Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được
gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng;
b) Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia
hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá
một tháng;
c) Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được
gia hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không
quá hai tháng;
d) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể
được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
3. Thẩm quyền gia hạn tạm giam của Viện kiểm sát
được quy định như sau:
a) Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm
sát quân sự khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng,
gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất
nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều tra ở cấp tỉnh, cấp
quân khu thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân
khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, gia hạn tạm
giam lần thứ nhất đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng;
b) Trong trường hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất
quy định tại điểm a khoản này đã hết mà vẫn chưa thể kết thúc việc điều tra và
không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện kiểm sát
nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có thể gia hạn tạm giam lần
thứ hai đối với tội phạm nghiêm trọng. Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm
sát quân sự cấp quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm
nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
4. Trong trường hợp vụ án được thụ lý để điều
tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn tạm giam thuộc thẩm quyền của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.
5. Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, trong
trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ hai quy định tại điểm b khoản 3 Điều
này đã hết và vụ án có nhiều tình tiết rất phức tạp mà không có căn cứ để thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao có thể gia hạn tạm giam lần thứ ba.
Trong trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm
an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn
thêm một lần nữa không quá bốn tháng.
6. Trong khi tạm giam, nếu xét thấy không cần
thiết phải tiếp tục tạm giam thì Cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị Viện kiểm
sát huỷ bỏ việc tạm giam để trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì
áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm
giam phải trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét cần thì áp dụng biện pháp
ngăn chặn khác.
Điều 121. Thời hạn phục hồi điều
tra, điều tra bổ sung, điều tra lại
1. Trong trường hợp phục hồi điều tra quy định tại
Điều 165 của Bộ luật này thì thời hạn điều tra tiếp không
quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm
rất nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể
từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.
Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất
phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều tra, Cơ
quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn điều tra. Việc gia
hạn điều tra được quy định như sau:
a) Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất
nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng;
b) Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được
gia hạn điều tra một lần không quá ba tháng.
Thẩm quyền gia hạn điều tra đối với từng loại tội
phạm theo quy định tại khoản 3 Điều 119 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp vụ án do Viện kiểm sát trả lại
để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá hai tháng; nếu do
Toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một
tháng. Viện kiểm sát hoặc Toà án chỉ được trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung
không quá hai lần. Thời hạn điều tra bổ sung tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận
lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra.
3. Trong trường hợp vụ án được trả lại để điều
tra lại thì thời hạn điều tra và gia hạn điều tra theo thủ tục chung quy định tại
Điều 119 của Bộ luật này.
Thời hạn điều tra được tính từ khi Cơ quan điều
tra nhận hồ sơ và yêu cầu điều tra lại.
4. Khi phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, điều
tra lại, Cơ quan điều tra có quyền áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp ngăn
chặn theo quy định của Bộ luật này.
Trong trường hợp có căn cứ theo quy định của Bộ luật
này cần phải tạm giam thì thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra, để điều tra bổ
sung không được quá thời hạn phục hồi điều tra, điều tra bổ sung quy định tại khoản
1 và khoản 2 Điều này.
Thời hạn tạm giam và gia hạn tạm giam trong trường
hợp vụ án được điều tra lại theo thủ tục chung quy định tại Điều
120 của Bộ luật này.
Điều 122. Giải quyết các yêu cầu
của người tham gia tố tụng
Khi người tham gia tố tụng có yêu cầu về những vấn
đề liên quan đến vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong phạm vi trách
nhiệm của mình, giải quyết yêu cầu của họ và báo cho họ biết kết quả. Trong trường
hợp không chấp nhận yêu cầu thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát phải trả lời
và nêu rõ lý do.
Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết của Cơ
quan điều tra hoặc Viện kiểm sát thì người tham gia tố tụng có quyền khiếu nại.
Việc khiếu nại và giải quyết khiếu nại được thực hiện theo quy định tại Chương
XXXV của Bộ luật này.
Điều 123. Sự tham dự của người
chứng kiến
Người chứng kiến được mời tham dự hoạt động điều
tra trong những trường hợp do Bộ luật này quy định.
Người chứng kiến có trách nhiệm xác nhận nội
dung và kết quả công việc mà Điều tra viên đã tiến hành trong khi mình có mặt
và có thể nêu ý kiến cá nhân. ý kiến này được ghi vào biên bản.
Điều 124. Không được tiết lộ bí
mật điều tra
Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra, Điều
tra viên, Kiểm sát viên phải báo trước cho người tham gia tố tụng, người chứng
kiến không được tiết lộ bí mật điều tra. Việc báo này phải được ghi vào biên bản.
Điều tra viên, Kiểm sát viên, người tham gia tố
tụng, người chứng kiến tiết lộ bí mật điều tra thì tùy trường hợp phải chịu
trách nhiệm hình sự theo các điều 263, 264, 286, 287, 327 và
328 của Bộ luật hình sự.
Điều 125. Biên bản điều tra
1. Khi tiến hành điều tra phải lập biên bản theo
quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
Điều tra viên lập biên bản phải đọc lại biên bản
cho người tham gia tố tụng nghe, giải thích cho họ biết quyền được bổ sung và
nhận xét về biên bản. Nhận xét đó được ghi vào biên bản. Người tham gia tố tụng
và Điều tra viên cùng ký tên vào biên bản.
2. Trong trường hợp người tham gia tố tụng từ chối
ký vào biên bản, thì việc đó phải được ghi vào biên bản và nêu rõ lý do.
3. Nếu người tham gia tố tụng vì nhược điểm về
tâm thần hoặc thể chất hoặc vì lý do khác mà không thể ký vào biên bản thì phải
ghi rõ lý do; Điều tra viên và người chứng kiến cùng xác nhận.
Người không biết chữ thì điểm chỉ vào biên bản.
Chương X
KHỞI TỐ BỊ CAN VÀ HỎI
CUNG BỊ CAN
Điều 126. Khởi tố bị can
1. Khi có đủ căn cứ để xác định một người đã thực
hiện hành vi phạm tội thì Cơ quan điều tra ra quyết định khởi tố bị can.
2. Quyết định khởi tố bị can ghi rõ: thời gian,
địa điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày,
tháng, năm sinh, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình của bị can; bị can bị khởi tố
về tội gì, theo điều khoản nào của Bộ luật hình sự; thời gian, địa điểm phạm tội
và những tình tiết khác của tội phạm.
Nếu bị can bị khởi tố về nhiều tội khác nhau thì
trong quyết định khởi tố bị can phải ghi rõ từng tội danh và điều khoản của Bộ luật
hình sự được áp dụng.
3. Sau khi khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải
chụp ảnh, lập danh chỉ bản của bị can và đưa vào hồ sơ vụ án.
4. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định
khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên
quan đến việc khởi tố bị can đó cho Viện kiểm sát cùng cấp để xét phê chuẩn việc
khởi tố. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị
can, Viện kiểm sát phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định
khởi tố bị can và gửi ngay cho Cơ quan điều tra.
5. Trong trường hợp phát hiện có người đã thực
hiện hành vi phạm tội chưa bị khởi tố thì Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều
tra ra quyết định khởi tố bị can.
Sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều tra mà Viện
kiểm sát phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án chưa
bị khởi tố thì Viện kiểm sát ra quyết định khởi tố bị can. Trong thời hạn 24 giờ,
kể từ khi ra quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải gửi cho Cơ quan điều
tra để tiến hành điều tra.
6. Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định khởi
tố bị can của mình hoặc quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát và giải
thích quyền, nghĩa vụ cho bị can quy định tại Điều 49 của Bộ luật
này. Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định
khởi tố bị can của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải giao ngay cho người đã
bị khởi tố. Việc giao nhận các quyết định nói trên phải lập biên bản theo quy định
tại Điều 95 của Bộ luật này.
Điều 127. Thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can
1. Khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác định
hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi
phạm tội khác thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định thay đổi hoặc bổ
sung quyết định khởi tố bị can.
2. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định
thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, Cơ quan điều tra phải gửi các quyết
định này và tài liệu có liên quan đến việc thay đổi hoặc bổ sung đó cho Viện kiểm
sát cùng cấp để xét phê chuẩn. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết
định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải quyết
định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định
khởi tố bị can.
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi Viện kiểm sát
ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, Viện kiểm sát phải
gửi cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.
3. Cơ quan điều tra phải giao ngay quyết định
thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của mình hoặc quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát và giải thích quyền,
nghĩa vụ cho bị can quy định tại Điều 49 của Bộ luật này.
Sau khi nhận được quyết định phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can của Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải
giao ngay cho người đã bị khởi tố. Việc giao nhận các quyết định nói trên phải
lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
Điều 128. Tạm đình chỉ chức vụ bị
can đang đảm nhiệm
Khi xét thấy việc bị can tiếp tục giữ chức vụ
gây khó khăn cho việc điều tra thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có quyền kiến
nghị với cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lý bị can tạm đình chỉ chức vụ của
bị can. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị, cơ quan, tổ chức
này phải trả lời bằng văn bản cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đã kiến nghị
biết.
Điều 129. Triệu tập bị can
1. Khi triệu tập bị can, Điều tra viên phải gửi
giấy triệu tập. Giấy triệu tập bị can ghi rõ họ tên, chỗ ở của bị can; ngày, giờ,
tháng, năm, địa điểm có mặt, gặp ai và trách nhiệm về việc vắng mặt không có lý
do chính đáng.
2. Giấy triệu tập bị can được gửi cho chính quyền
xã, phường, thị trấn nơi bị can cư trú hoặc cho cơ quan, tổ chức nơi bị can làm
việc. Cơ quan, tổ chức nhận được giấy triệu tập có trách nhiệm chuyển ngay giấy
triệu tập cho bị can.
Khi nhận giấy triệu tập, bị can phải ký nhận, có
ghi rõ ngày, giờ nhận. Người chuyển giấy triệu tập phải chuyển phần giấy triệu
tập có ký nhận của bị can cho cơ quan đã triệu tập bị can; nếu bị can không ký
nhận thì phải lập biên bản về việc đó và gửi cho cơ quan triệu tập bị can; nếu
bị can vắng mặt thì có thể giao giấy triệu tập cho một người đã thành niên
trong gia đình để ký xác nhận và chuyển cho bị can. Bị can đang bị tạm giam được
triệu tập thông qua Ban giám thị trại tạm giam.
3. Bị can phải có mặt theo
giấy triệu tập. Trong trường hợp vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc có biểu
hiện trốn tránh thì Điều tra viên có thể ra quyết định áp giải.
4. Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có
thể triệu tập bị can. Việc triệu tập bị can được tiến hành theo quy định tại Điều
này.
Điều 130. Áp giải bị can tại ngoại
1. Quyết định áp giải bị can ghi rõ thời gian, địa
điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên, ngày, tháng,
năm sinh, nơi cư trú của bị can; tội danh mà bị can đã bị khởi tố; thời gian, địa
điểm bị can phải có mặt.
2. Người thi hành quyết định áp giải phải đọc,
giải thích quyết định và lập biên bản về việc áp giải theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
3. Không được áp giải bị can vào ban đêm.
Điều 131. Hỏi cung bị can
1. Việc hỏi cung bị can phải do Điều tra viên tiến
hành ngay sau khi có quyết định khởi tố bị can. Có thể hỏi cung bị can tại nơi
tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó.
Trước khi hỏi cung, Điều tra viên phải đọc quyết
định khởi tố bị can và giải thích cho bị can biết rõ quyền và nghĩa vụ theo quy
định tại Điều 49 của Bộ luật này. Việc này phải được ghi
vào biên bản.
Nếu vụ án có nhiều bị can thì hỏi riêng từng người
và không để họ tiếp xúc với nhau. Có thể cho bị can tự viết lời khai của mình.
2. Không hỏi cung vào ban đêm, trừ trường hợp không
thể trì hoãn được, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
3. Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có
thể hỏi cung bị can. Việc hỏi cung bị can được tiến hành theo quy định tại Điều
này.
4. Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên bức cung hoặc
dùng nhục hình đối với bị can thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại
Điều 299 hoặc Điều 298 của Bộ luật hình sự.
Điều 132. Biên bản hỏi cung bị
can
1. Biên bản hỏi cung bị can phải được lập theo
quy định tại Điều 95 và Điều 125 của Bộ luật này.
Mỗi lần hỏi cung đều phải lập biên bản. Biên bản
phải ghi đầy đủ lời trình bày của bị can, các câu hỏi và câu trả lời. Nghiêm cấm
Điều tra viên tự mình thêm, bớt hoặc sửa chữa lời khai của bị can.
2. Sau khi hỏi cung, Điều tra viên đọc lại biên
bản cho bị can nghe hoặc để bị can tự đọc. Trong trường hợp có bổ sung và sửa
chữa biên bản thì bị can và Điều tra viên cùng ký xác nhận. Nếu biên bản có nhiều
trang thì bị can ký vào từng trang của biên bản. Trong trường hợp bị can tự viết
lời khai thì Điều tra viên và bị can cùng ký xác nhận tờ khai đó.
Nếu việc hỏi cung được ghi âm thì sau khi hỏi
cung, phải phát lại để bị can và Điều tra viên cùng nghe. Biên bản phải ghi lại
nội dung việc hỏi cung, bị can và Điều tra viên cùng ký xác nhận.
Trong trường hợp hỏi cung bị can có người phiên
dịch thì Điều tra viên phải giải thích quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch,
đồng thời giải thích cho bị can biết được quyền yêu cầu thay đổi người phiên dịch.
Người phiên dịch và bị can cùng ký vào từng trang của biên bản hỏi cung.
3. Khi hỏi cung có mặt người bào chữa, người đại
diện hợp pháp của bị can thì Điều tra viên phải giải thích cho những người này
biết quyền và nghĩa vụ của họ trong khi hỏi cung bị can. Bị can, người bào chữa,
người đại diện hợp pháp cùng ký vào biên bản hỏi cung.
Trong trường hợp người bào chữa được hỏi bị can
thì trong biên bản phải ghi đầy đủ câu hỏi của người bào chữa và trả lời của bị
can.
4. Trong trường hợp Kiểm sát viên hỏi cung bị
can thì phải thực hiện theo quy định của Điều này.
Chương XI
LẤY LỜI KHAI NGƯỜI LÀM
CHỨNG, NGƯỜI BỊ HẠI, NGUYÊN ĐƠN DÂN SỰ, BỊ ĐƠN DÂN SỰ, NGƯỜI CÓ QUYỀN LỢI,
NGHĨA VỤ LIÊN QUAN ĐẾN VỤ ÁN. ĐỐI CHẤT VÀ NHẬN DẠNG
Điều 133. Triệu tập người làm chứng
1. Khi triệu tập người làm chứng, Điều tra viên
phải gửi giấy triệu tập. Giấy triệu tập người làm chứng phải ghi rõ họ tên, chỗ
ở của người làm chứng, ngày, giờ, tháng, năm và địa điểm có mặt; gặp ai và
trách nhiệm về việc vắng mặt không có lý do chính đáng.
2. Giấy triệu tập được giao trực tiếp cho người
làm chứng hoặc thông qua chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức
nơi người làm chứng cư trú hoặc làm việc. Các cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm
tạo điều kiện cho người làm chứng thực hiện nghĩa vụ.
Trong mọi trường hợp, việc giao giấy triệu tập
phải được ký nhận.
3. Giấy triệu tập người làm chứng chưa đủ 16 tuổi
được giao cho cha, mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác của họ.
4. Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có
thể triệu tập người làm chứng. Việc triệu tập người làm chứng được thực hiện
theo quy định tại Điều này.
Điều 134. Dẫn giải người làm chứng
1. Trong trường hợp người làm chứng đã được Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát triệu tập nhưng cố ý không đến mà không có lý do
chính đáng và việc họ vắng mặt gây trở ngại cho việc điều tra, truy tố thì cơ
quan đã triệu tập người làm chứng có thể ra quyết định dẫn giải.
2. Quyết định dẫn giải người làm chứng ghi rõ thời
gian, địa điểm ra quyết định; họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên,
ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người làm chứng; thời gian, địa điểm người
làm chứng phải có mặt.
3. Người thi hành quyết định dẫn giải phải đọc,
giải thích quyền và nghĩa vụ của người làm chứng và lập biên bản về việc dẫn giải
theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
4. Không được dẫn giải người làm chứng vào ban
đêm.
Điều 135. Lấy lời khai người làm
chứng
1. Việc lấy lời khai người làm chứng được tiến
hành tại nơi tiến hành điều tra hoặc nơi cư trú, nơi làm việc của người đó.
2. Nếu vụ án có nhiều người làm chứng thì phải lấy
lời khai riêng từng người và không để cho họ tiếp xúc với nhau trong thời gian
lấy lời khai.
3. Trước khi lấy lời khai, Điều tra viên phải giải
thích cho người làm chứng biết quyền và nghĩa vụ của họ. Việc này phải được ghi
vào biên bản.
4. Trước khi hỏi về nội dung vụ án, Điều tra
viên cần xác minh mối quan hệ giữa người làm chứng với bị can, người bị hại và
những tình tiết khác về nhân thân của người làm chứng. Điều tra viên cần yêu cầu
người làm chứng kể hoặc viết lại những gì mà họ biết về vụ án, sau đó mới đặt
câu hỏi. Không được đặt câu hỏi có tính chất gợi ý.
5. Khi lấy lời khai của người làm chứng dưới 16
tuổi phải mời cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp khác hoặc thầy giáo, cô giáo
của người đó tham dự.
6. Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có
thể lấy lời khai người làm chứng. Việc lấy lời khai người làm chứng được tiến
hành theo quy định tại Điều này.
Điều 136. Biên bản ghi lời khai
của người làm chứng
Biên bản ghi lời khai của người làm chứng phải
được lập theo quy định tại các điều 95, 125 và 132 của Bộ luật
này.
Điều 137. Triệu tập, lấy lời
khai của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến vụ án
Việc triệu tập, lấy lời khai của người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án được tiến hành theo quy định tại các điều 133, 135 và 136 của
Bộ luật này.
Điều 138. Đối chất
1. Trong trường hợp có sự mâu thuẫn trong lời
khai giữa hai hay nhiều người thì Điều tra viên tiến hành đối chất.
2. Nếu có người làm chứng hoặc người bị hại tham
gia đối chất thì trước tiên Điều tra viên phải giải thích cho họ biết trách nhiệm
về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố tình khai báo gian dối. Việc này
phải được ghi vào biên bản.
3. Khi bắt đầu đối chất, Điều tra viên hỏi về mối
quan hệ giữa những người tham gia đối chất, sau đó hỏi họ về những tình tiết cần
làm sáng tỏ. Khi đã nghe những lời khai trong đối chất, Điều tra viên có thể hỏi
thêm từng người.
Điều tra viên cũng có thể để cho những người
tham gia đối chất hỏi lẫn nhau; câu hỏi và trả lời của những người này phải được
ghi vào biên bản.
Chỉ sau khi những người tham gia đối chất đã
khai xong mới được nhắc lại những lời khai lần trước của họ.
4. Biên bản đối chất phải lập theo quy định tại
các điều 95, 125 và 132 của Bộ luật này.
5. Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên có
thể tiến hành đối chất. Việc đối chất được tiến hành theo quy định tại Điều này.
Điều 139. Nhận dạng
1. Khi cần thiết, Điều tra viên có thể mời người
hoặc đưa vật, ảnh cho người làm chứng, người bị hại hoặc bị can nhận dạng.
Điều tra viên phải hỏi trước người nhận dạng về
những tình tiết, vết tích và đặc điểm mà nhờ đó họ có thể nhận dạng được.
2. Số người, vật hoặc ảnh đưa ra để nhận dạng ít
nhất phải là ba và về bề ngoài phải tương tự giống nhau. Đối với việc nhận dạng
tử thi thì không áp dụng nguyên tắc này.
Trong trường hợp đặc biệt có thể cho xác nhận
người qua tiếng nói.
3. Nếu người làm chứng hay người bị hại là người
nhận dạng thì trước khi tiến hành, Điều tra viên phải giải thích cho họ biết
trách nhiệm về việc từ chối, trốn tránh khai báo hoặc cố ý khai báo gian dối.
Việc giải thích đó phải được ghi vào biên bản.
4. Trong khi tiến hành nhận dạng, Điều tra viên
không được đặt câu hỏi có tính chất gợi ý. Sau khi người nhận dạng đã xác nhận
một người, một vật hay một ảnh trong số được đưa ra để nhận dạng thì Điều tra
viên yêu cầu họ giải thích là họ đã căn cứ vào các vết tích hoặc đặc điểm gì mà
xác nhận người, vật hay ảnh đó.
Việc tiến hành nhận dạng phải có mặt người chứng
kiến.
5. Biên bản nhận dạng phải được lập theo quy định
tại các điều 95, 125 và 132 của Bộ luật này. Trong biên bản
cần ghi rõ nhân thân của người nhận dạng và của những người được đưa ra để nhận
dạng; những đặc điểm của vật, ảnh được đưa ra để nhận dạng; các lời khai báo,
trình bày của người nhận dạng.
Chương XII
KHÁM XÉT, THU GIỮ, TẠM
GIỮ, KÊ BIÊN TÀI SẢN
Điều 140. Căn cứ khám người, chỗ
ở, chỗ làm việc, địa điểm, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
1. Việc khám người, chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm
chỉ được tiến hành khi có căn cứ để nhận định trong người, chỗ ở, chỗ làm việc,
địa điểm của một người có công cụ, phương tiện phạm tội, đồ vật, tài sản do phạm
tội mà có hoặc đồ vật, tài liệu khác có liên quan đến vụ án.
Việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm cũng được
tiến hành khi cần phát hiện người đang bị truy nã.
2. Khi cần phải thu thập tài liệu, đồ vật liên
quan đến vụ án thì có thể khám thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm.
Điều 141. Thẩm quyền ra lệnh
khám xét
1. Những người được quy định tại khoản
1 Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh khám xét trong mọi trường hợp. Lệnh
khám xét của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều
80 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi
hành.
2. Trong trường hợp không thể trì hoãn, những
người được quy định tại khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này có
quyền ra lệnh khám xét. Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi khám xong, người ra lệnh
khám phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều 142. Khám người
1. Khi bắt đầu khám người, phải đọc lệnh khám và
đưa cho đương sự đọc lệnh khám đó; giải thích cho đương sự và những người có mặt
biết quyền và nghĩa vụ của họ.
Người tiến hành khám phải yêu cầu đương sự đưa
ra những đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án, nếu đương sự từ chối thì tiến
hành khám.
2. Khi khám người thì nam khám nam, nữ khám nữ
và phải có người cùng giới chứng kiến.
3. Có thể tiến hành khám người mà không cần có lệnh
trong trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định người có mặt tại
nơi khám xét giấu trong người đồ vật, tài liệu cần thu giữ.
Điều 143. Khám chỗ ở, chỗ làm việc,
địa điểm
1. Việc khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm được
tiến hành theo quy định tại các điều 140, 141 và 142 của Bộ luật
này.
2. Khi khám chỗ ở, địa điểm phải có mặt người chủ
hoặc người đã thành niên trong gia đình họ, có đại diện chính quyền xã, phường,
thị trấn và người láng giềng chứng kiến; trong trường hợp đương sự và người
trong gia đình họ cố tình vắng mặt, bỏ trốn hoặc đi vắng lâu ngày mà việc khám
xét không thể trì hoãn thì phải có đại diện chính quyền và hai người láng giềng
chứng kiến.
3. Không được khám chỗ ở vào ban đêm, trừ trường
hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản.
4. Khi khám chỗ làm việc của một người thì phải
có mặt người đó, trừ trường hợp không thể trì hoãn, nhưng phải ghi rõ lý do vào
biên bản.
Việc khám chỗ làm việc phải có đại diện của cơ
quan, tổ chức nơi người đó làm việc chứng kiến.
5. Khi tiến hành khám chỗ ở, chỗ làm việc, địa điểm
những người có mặt không được tự ý rời khỏi nơi đang bị khám, không được liên hệ,
trao đổi với nhau hoặc với những người khác cho đến khi khám xong.
Điều 144. Thu giữ thư tín, điện
tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện
Khi cần thiết phải thu giữ thư tín, điện tín,
bưu kiện, bưu phẩm tại bưu điện thì Cơ quan điều tra ra lệnh thu giữ. Lệnh này
phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành, trừ trường hợp
không thể trì hoãn nhưng phải ghi rõ lý do vào biên bản và sau khi thu giữ phải
thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp biết.
Người thi hành lệnh phải thông báo cho người phụ
trách cơ quan bưu điện hữu quan trước khi tiến hành thu giữ. Người phụ trách cơ
quan bưu điện hữu quan phải giúp đỡ người thi hành lệnh thu giữ hoàn thành nhiệm
vụ.
Khi thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm,
phải có đại diện của cơ quan bưu điện chứng kiến và ký xác nhận vào biên bản.
Cơ quan ra lệnh thu giữ phải thông báo cho người
có thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ biết. Nếu thông báo cản trở
việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, cơ quan ra lệnh thu giữ phải
thông báo ngay.
Điều 145. Tạm giữ đồ vật, tài liệu
khi khám xét
Khi khám xét, Điều tra viên được tạm giữ đồ vật
là vật chứng và tài liệu có liên quan trực tiếp đến vụ án. Đối với đồ vật thuộc
loại cấm tàng trữ, lưu hành thì phải thu giữ và chuyển ngay cho cơ quan quản lý
có thẩm quyền. Trong trường hợp cần thiết phải niêm phong thì tiến hành trước mặt
chủ đồ vật hoặc đại diện gia đình, đại diện chính quyền và người chứng kiến.
Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu khi tiến hành khám
xét phải được lập biên bản. Biên bản tạm giữ được lập thành bốn bản: một bản
giao cho người chủ đồ vật, tài liệu; một bản đưa vào hồ sơ vụ án; một bản gửi
cho Viện kiểm sát cùng cấp và một bản giao cho cơ quan quản lý đồ vật, tài liệu
bị tạm giữ.
Điều 146. Kê biên tài sản
1. Việc kê biên tài sản chỉ áp dụng đối với bị
can, bị cáo về tội mà Bộ luật hình sự quy định có thể tịch thu tài sản hoặc phạt
tiền cũng như đối với người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật.
Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh kê biên tài sản.
Lệnh kê biên của những người được quy định tại điểm d khoản 1 Điều
80 của Bộ luật này phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp trước
khi thi hành.
2. Chỉ kê biên phần tài sản tương ứng với mức có
thể bị tịch thu, phạt tiền hoặc bồi thường thiệt hại.
Tài sản bị kê biên được giao cho chủ tài sản hoặc
người thân thích của họ bảo quản. Người được giao bảo quản mà có hành vi tiêu
dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu, hủy hoại tài sản bị kê biên thì phải
chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 310 của Bộ luật hình sự.
3. Khi tiến hành kê biên tài sản, phải có mặt
đương sự hoặc người đã thành niên trong gia đình, đại diện chính quyền xã, phường,
thị trấn và người láng giềng chứng kiến. Người tiến hành kê biên phải lập biên
bản, ghi rõ tên và tình trạng từng tài sản bị kê biên. Biên bản phải lập theo
quy định tại Điều 95 và Điều 125 của Bộ luật này, đọc cho
đương sự và những người có mặt nghe và cùng ký tên. Những khiếu nại của đương sự
được ghi vào biên bản, có chữ ký xác nhận của họ và của người tiến hành kê
biên.
Biên bản kê biên được lập thành ba bản: một bản
được giao ngay cho đương sự sau khi kê biên xong; một bản gửi cho Viện kiểm sát
cùng cấp và một bản đưa vào hồ sơ vụ án.
4. Khi xét thấy việc kê biên không còn cần thiết
thì người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật
này phải kịp thời ra quyết định hủy bỏ lệnh kê biên.
Điều 147. Trách nhiệm bảo quản đồ
vật, tài liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm bị thu giữ, tạm giữ hoặc bị
niêm phong
Đồ vật, tài liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện,
bưu phẩm bị thu giữ, tạm giữ hoặc bị niêm phong theo quy định tại các điều 75, 144 và 145 của Bộ luật này phải được bảo quản nguyên
vẹn.
Người được giao bảo quản mà phá hủy niêm phong,
tiêu dùng, chuyển nhượng, đánh tráo, cất giấu hoặc hủy hoại tài sản được giao bảo
quản thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 310 của Bộ luật
hình sự.
Điều 148. Biên bản khám xét, thu
giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
Khi tiến hành khám xét, thu giữ, tạm giữ đồ vật,
tài liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm phải lập biên bản theo quy định
tại Điều 95 và Điều 125 của Bộ luật này.
Điều 149. Trách nhiệm của người
ra lệnh và thi hành lệnh khám xét, kê biên tài sản, thu giữ, tạm giữ đồ vật,
tài liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
Người ra lệnh, người thi hành lệnh khám xét, kê
biên tài sản, thu giữ, tạm giữ đồ vật, tài liệu, thư tín, điện tín, bưu kiện,
bưu phẩm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật
hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Chương XIII
KHÁM NGHIỆM HIỆN TRƯỜNG,
KHÁM NGHIỆM TỬ THI, XEM XÉT DẤU VẾT TRÊN THÂN THỂ, THỰC NGHIỆM ĐIỀU TRA, GIÁM ĐỊNH
Điều 150. Khám nghiệm hiện trường
1. Điều tra viên tiến hành khám nghiệm nơi xảy
ra, nơi phát hiện tội phạm nhằm phát hiện dấu vết của tội phạm, vật chứng và
làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án.
2. Khám nghiệm hiện trường có thể tiến hành trước
khi khởi tố vụ án hình sự. Trong mọi trường hợp, trước khi tiến hành khám nghiệm,
Điều tra viên phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Kiểm sát viên phải
có mặt để kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường. Khi khám nghiệm, phải có người
chứng kiến; có thể để cho bị can, người bị hại, người làm chứng và mời nhà
chuyên môn tham dự việc khám nghiệm.
3. Khi khám nghiệm hiện trường, Điều tra viên tiến
hành chụp ảnh, vẽ sơ đồ, mô tả hiện trường, đo đạc, dựng mô hình, thu lượm và
xem xét tại chỗ dấu vết của tội phạm, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án;
ghi rõ kết quả xem xét vào biên bản khám nghiệm hiện trường.
Trong trường hợp không thể xem xét ngay được thì
đồ vật và tài liệu thu giữ phải được bảo quản, giữ nguyên trạng hoặc niêm phong
đưa về nơi tiến hành điều tra.
Điều 151. Khám nghiệm tử thi
Việc khám nghiệm tử thi do Điều tra viên tiến
hành có bác sĩ pháp y tham gia và phải có người chứng kiến.
Trong trường hợp cần phải khai quật tử thi thì
phải có quyết định của Cơ quan điều tra và phải thông báo cho gia đình nạn nhân
biết trước khi tiến hành. Việc khai quật tử thi phải có bác sỹ pháp y tham gia.
Khi cần thiết có thể triệu tập người giám định
và phải có người chứng kiến.
Trong mọi trường hợp, việc khám nghiệm tử thi phải
được thông báo trước cho Viện kiểm sát cùng cấp biết. Kiểm sát viên phải có mặt
để tiến hành kiểm sát việc khám nghiệm tử thi.
Điều 152. Xem xét dấu vết trên
thân thể
1. Điều tra viên tiến hành xem xét thân thể người
bị bắt, bị tạm giữ, bị can, người bị hại, người làm chứng để phát hiện trên người
họ dấu vết của tội phạm hoặc các dấu vết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Trong
trường hợp cần thiết thì Cơ quan điều tra trưng cầu giám định pháp y.
2. Việc xem xét thân thể phải do người cùng giới
tiến hành và phải có người cùng giới chứng kiến. Trong trường hợp cần thiết thì
có bác sĩ tham gia.
Không được xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm hoặc
sức khỏe của người bị xem xét thân thể.
Điều 153. Thực nghiệm điều tra
1. Để kiểm tra và xác minh những tài liệu, những
tình tiết có ý nghĩa đối với vụ án, Cơ quan điều tra có quyền thực nghiệm điều
tra bằng cách cho dựng lại hiện trường, diễn lại hành vi, tình huống hoặc mọi
tình tiết khác của một sự việc nhất định và tiến hành các hoạt động thực nghiệm
cần thiết. Khi thấy cần, có thể đo đạc, chụp ảnh, ghi hình, vẽ sơ đồ.
2. Khi tiến hành thực nghiệm điều tra, phải có
người chứng kiến. Trong trường hợp cần thiết, người bị tạm giữ, bị can, người bị
hại, người làm chứng cũng có thể tham gia.
Không được xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, gây ảnh
hưởng đến sức khỏe của những người tham gia việc thực nghiệm điều tra.
3. Trong trường hợp cần thiết, Viện kiểm sát có
thể tiến hành thực nghiệm điều tra. Việc thực nghiệm điều tra được tiến hành
theo quy định tại Điều này.
Điều 154. Biên bản khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể và thực nghiệm điều
tra
Khi tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm
tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể và thực nghiệm điều tra phải lập biên bản
theo quy định tại Điều 95 và Điều 125 của Bộ luật này.
Điều 155. Trưng cầu giám định
1. Khi có những vấn đề cần được xác định theo
quy định tại khoản 3 Điều này hoặc khi xét thấy cần thiết thì cơ quan tiến hành
tố tụng ra quyết định trưng cầu giám định.
2. Quyết định trưng cầu giám định phải nêu rõ
yêu cầu giám định vấn đề gì; họ tên người được trưng cầu giám định hoặc tên cơ
quan tiến hành giám định; ghi rõ quyền và nghĩa vụ của người giám định quy định
tại Điều 60 của Bộ luật này.
3. Bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác
định:
a) Nguyên nhân chết người, tính chất thương
tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động;
b) Tình trạng tâm thần của bị can, bị cáo trong
trường hợp có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ;
c) Tình trạng tâm thần của người làm chứng hoặc
người bị hại trong trường hợp có sự nghi ngờ về khả năng nhận thức và khai báo
đúng đắn đối với những tình tiết của vụ án;
d) Tuổi của bị can, bị cáo, người bị hại, nếu việc
đó có ý nghĩa đối với vụ án và không có tài liệu khẳng định tuổi của họ hoặc có
sự nghi ngờ về tính xác thực của những tài liệu đó;
đ) Chất độc, chất ma tuý, chất phóng xạ, tiền giả.
Điều 156. Việc tiến hành giám định
1. Việc giám định có thể tiến hành tại cơ quan
giám định hoặc tại nơi tiến hành điều tra vụ án ngay sau khi có quyết định
trưng cầu giám định.
Điều tra viên, Kiểm sát viên có quyền tham dự
giám định, nhưng phải báo trước cho người giám định biết.
2. Trong trường hợp việc giám định không thể tiến
hành theo thời hạn mà cơ quan trưng cầu giám định yêu cầu thì cơ quan giám định
hoặc người giám định phải thông báo ngay bằng văn bản và nêu rõ lý do cho cơ
quan đã trưng cầu giám định biết.
Điều 157. Nội dung kết luận giám
định
1. Nội dung kết luận giám định phải ghi rõ: thời
gian, địa điểm tiến hành giám định; họ tên, trình độ văn hóa, trình độ chuyên
môn của người giám định; những người tham gia khi tiến hành giám định; những dấu
vết, đồ vật, tài liệu và tất cả những gì đã được giám định, những phương pháp
được áp dụng và giải đáp những vấn đề đã được đặt ra có căn cứ cụ thể.
2. Để làm sáng tỏ hoặc bổ sung nội dung kết luận
giám định, cơ quan trưng cầu giám định có thể hỏi thêm người giám định về những
tình tiết cần thiết và có thể quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại.
Điều 158. Quyền của bị can và những
người tham gia tố tụng đối với kết luận giám định
1. Sau khi đã tiến hành giám định, nếu bị can,
những người tham gia tố tụng khác yêu cầu thì cơ quan đã trưng cầu giám định phải
thông báo cho họ về nội dung kết luận giám định.
Bị can, những người tham gia tố tụng khác được
trình bày những ý kiến của mình về kết luận giám định, yêu cầu giám định bổ
sung hoặc giám định lại. Những việc này được ghi vào biên bản.
2. Trong trường hợp Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát không chấp nhận yêu cầu của bị can, những người tham gia tố tụng khác thì
phải nêu rõ lý do và thông báo cho họ biết.
Điều 159. Giám định bổ sung hoặc
giám định lại
1. Việc giám định bổ sung được tiến hành trong
trường hợp nội dung kết luận giám định chưa rõ, chưa đầy đủ hoặc khi phát sinh
những vấn đề mới liên quan đến những tình tiết của vụ án đã được kết luận trước
đó.
2. Việc giám định lại được tiến hành khi có nghi
ngờ về kết quả giám định hoặc có mâu thuẫn trong các kết luận giám định về cùng
một vấn đề cần giám định. Việc giám định lại phải do người giám định khác tiến
hành.
3. Việc giám định bổ sung hoặc giám định lại được
tiến hành theo thủ tục chung quy định tại các điều 155, 156,
157 và 158 của Bộ luật này.
Chương XIV
TẠM ĐÌNH CHỈ ĐIỀU TRA
VÀ KẾT THÚC ĐIỀU TRA
Điều 160. Tạm đình chỉ điều tra
1. Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm
nghèo khác có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y thì có thể tạm đình chỉ điều
tra trước khi hết hạn điều tra. Trong trường hợp chưa xác định được bị can hoặc
không biết rõ bị can đang ở đâu thì chỉ tạm đình chỉ điều tra khi đã hết thời hạn
điều tra.
Trong trường hợp đã trưng cầu giám định nhưng
chưa có kết quả giám định mà hết thời hạn điều tra thì tạm đình chỉ điều tra và
việc giám định vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.
Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can mà lý do
tạm đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả các bị can, thì có thể tạm
đình chỉ điều tra đối với từng bị can.
Nếu không biết bị can đang ở đâu thì Cơ quan điều
tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra.
2. Cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều
tra phải gửi quyết định này cho Viện kiểm sát cùng cấp, bị can, người bị hại.
Điều 161. Truy nã bị can
Khi bị can trốn hoặc không biết bị can đang ở
đâu thì Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã bị can.
Quyết định truy nã phải ghi rõ ngày, giờ, tháng,
năm, địa điểm ra quyết định truy nã; họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ
tên, tuổi, nơi cư trú của bị can; đặc điểm để nhận dạng bị can, dán ảnh kèm
theo, nếu có; tội phạm mà bị can đã bị khởi tố.
Quyết định truy nã được thông báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng để mọi người phát hiện, bắt, giữ người bị truy
nã.
Điều 162. Kết thúc điều tra
1. Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra phải
làm bản kết luận điều tra.
2. Việc điều tra kết thúc khi Cơ quan điều tra
ra bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc ra bản kết luận điều tra và quyết
định đình chỉ điều tra.
3. Bản kết luận điều tra phải ghi rõ ngày,
tháng, năm, họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra kết luận.
4. Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra bản kết
luận điều tra, Cơ quan điều tra phải gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố
hoặc bản kết luận điều tra kèm theo quyết định đình chỉ điều tra cùng hồ sơ vụ
án cho Viện kiểm sát cùng cấp; gửi bản kết luận điều tra đề nghị truy tố hoặc
quyết định đình chỉ điều tra cho bị can, người bào chữa.
Điều 163. Đề nghị truy tố
1. Khi có đầy đủ chứng cứ để xác định có tội phạm
và bị can thì Cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố. Bản kết
luận điều tra trình bày diễn biến hành vi phạm tội, nêu rõ các chứng cứ chứng
minh tội phạm, những ý kiến đề xuất giải quyết vụ án, có nêu rõ lý do và căn cứ
đề nghị truy tố.
2. Kèm theo bản kết luận điều tra có bản kê về
thời hạn điều tra, biện pháp ngăn chặn đã được áp dụng có ghi rõ thời gian tạm
giữ, tạm giam, vật chứng, việc kiện dân sự, biện pháp để bảo đảm việc phạt tiền,
bồi thường và tịch thu tài sản, nếu có.
Điều 164. Đình chỉ điều tra
1. Trong trường hợp đình chỉ điều tra, bản kết
luận điều tra nêu rõ quá trình điều tra, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra.
2. Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều
tra trong những trường hợp sau đây:
a) Có một trong những căn
cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều 107 của Bộ luật
này hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của Bộ luật
hình sự;
b) Đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh
được bị can đã thực hiện tội phạm.
3. Quyết định đình chỉ điều tra ghi rõ thời
gian, địa điểm ra quyết định, lý do và căn cứ đình chỉ điều tra, việc hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn, trả lại đồ vật, tài liệu đã tạm giữ, nếu có và những vấn đề
khác có liên quan.
Nếu trong một vụ án có nhiều bị can mà căn cứ để
đình chỉ điều tra không liên quan đến tất cả các bị can, thì có thể đình chỉ điều
tra đối với từng bị can.
4. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định đình chỉ điều tra của Cơ quan điều tra, nếu thấy quyết định
đình chỉ điều tra có căn cứ thì Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Cơ
quan điều tra để giải quyết theo thẩm quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều
tra không có căn cứ thì huỷ bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu Cơ quan điều
tra phục hồi điều tra; nếu thấy đủ căn cứ để truy tố thì huỷ bỏ quyết định đình
chỉ điều tra và ra quyết định truy tố. Thời hạn ra quyết định truy tố được thực
hiện theo quy định tại Điều 166 của Bộ luật này.
Điều 165. Phục hồi điều tra
1. Khi có lý do để hủy bỏ quyết định đình chỉ hoặc
quyết định tạm đình chỉ điều tra thì Cơ quan điều tra ra quyết định phục hồi điều
tra, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong thời hạn hai
ngày, kể từ ngày ra quyết định phục hồi điều tra, cơ quan điều tra phải gửi quyết
định này cho Viện kiểm sát cùng cấp.
2. Nếu việc điều tra bị đình chỉ theo quy định tại
điểm 5 và điểm 6 Điều 107 của Bộ luật này mà bị can không đồng
ý và yêu cầu điều tra lại thì Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát cùng cấp ra
quyết định phục hồi điều tra.
Chương XV
QUYẾT ĐỊNH VIỆC TRUY TỐ
Điều 166. Thời hạn quyết định
truy tố
1. Trong thời hạn hai mươi ngày đối với tội phạm
ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ
án và bản kết luận điều tra, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định
sau đây:
a) Truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng;
b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm
sát có thể gia hạn, nhưng không quá mười ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng
và tội phạm nghiêm trọng; không quá mười lăm ngày đối với tội phạm rất nghiêm
trọng; không quá ba mươi ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra một trong
những quyết định nêu trên, Viện kiểm sát phải thông báo cho bị can, người bào
chữa biết; giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm
đình chỉ vụ án cho bị can. Người bào chữa được đọc bản cáo trạng, ghi chép, sao
chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa theo quy định
của pháp luật và đề xuất yêu cầu.
2. Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát có
quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; yêu cầu
Cơ quan điều tra truy nã bị can. Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn quy
định tại khoản 1 Điều này.
3. Trong trường hợp truy tố thì trong thời hạn
ba ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải
gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án.
4. Trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền
truy tố của mình, Viện kiểm sát ra ngay quyết định chuyển vụ án cho Viện kiểm
sát có thẩm quyền.
Điều 167. Bản cáo trạng
1. Nội dung bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, giờ,
tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm; thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội, hậu
quả của tội phạm và những tình tiết quan trọng khác; những chứng cứ xác định tội
trạng của bị can, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự; nhân thân của bị can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án.
Phần kết luận của bản cáo trạng ghi rõ tội danh
và điều khoản của Bộ luật hình sự được áp dụng.
2. Bản cáo trạng phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập
cáo trạng; họ tên, chức vụ và chữ ký của người ra bản cáo trạng.
Điều 168. Trả hồ sơ để điều tra
bổ sung
Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ cho Cơ
quan điều tra để điều tra bổ sung khi nghiên cứu hồ sơ vụ án phát hiện thấy:
1. Còn thiếu những chứng cứ
quan trọng đối với vụ án mà Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được;
2. Có căn cứ để khởi tố bị
can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác;
3. Có vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng.
Những vấn đề cần được điều tra bổ sung phải được
nêu rõ trong quyết định yêu cầu điều tra bổ sung.
Điều 169. Đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ vụ án
1. Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án
khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều
107 của Bộ luật này hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều
69 của Bộ luật hình sự.
2. Viện kiểm sát quyết định tạm đình chỉ vụ án
trong những trường hợp sau đây:
a) Khi bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo
khác mà có chứng nhận của Hội đồng giám định pháp y;
b) Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can
đang ở đâu; trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can.
3. Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can mà căn
cứ để đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả các bị can,
thì có thể đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án đối với từng bị can.
4. Trong trường hợp quyết định đình chỉ vụ án của
Viện kiểm sát cấp dưới không có căn cứ và trái pháp luật, thì Viện trưởng Viện
kiểm sát cấp trên có quyền huỷ bỏ quyết định đó và yêu cầu Viện kiểm sát cấp dưới
ra quyết định truy tố.
Phần thứ ba
XÉT XỬ SƠ THẨM
Chương XVI
THẨM QUYỀN CỦA TOÀ ÁN
CÁC CẤP
Điều 170. Thẩm quyền xét xử của
Tòa án các cấp
1. Tòa án nhân dân cấp huyện
và Tòa án quân sự khu vực xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm
ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng, trừ những
tội phạm sau đây :
a) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia;
b) Các tội phá hoại hoà bình, chống loài người
và tội phạm chiến tranh;
c) Các tội quy định tại các điều
93, 95, 96, 172, 216, 217, 218, 219, 221, 222, 223, 224, 225, 226, 263, 293,
294, 295, 296, 322 và 323 của Bộ luật hình sự.
2. Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp
quân khu xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về những tội phạm không thuộc thẩm
quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực hoặc những vụ án
thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp dưới mà mình lấy lên để xét xử.
Điều 171. Thẩm quyền theo lãnh
thổ
1. Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án hình sự là
Tòa án nơi tội phạm được thực hiện. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện tại
nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được nơi thực hiện tội phạm thì Tòa án
có thẩm quyền xét xử là Tòa án nơi kết thúc việc điều tra.
2. Bị cáo phạm tội ở nước ngoài nếu xét xử ở Việt
Nam thì do Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi cư trú cuối cùng của bị cáo ở trong nước
xét xử. Nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng ở trong nước của bị cáo
thì tùy trường hợp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định giao cho Tòa
án nhân dân thành phố Hà Nội hoặc Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử.
Bị cáo phạm tội ở nước ngoài, nếu thuộc thẩm quyền
xét xử của Tòa án quân sự thì do Tòa án quân sự cấp quân khu trở lên xét xử
theo quyết định của Chánh án Tòa án quân sự trung ương.
Điều 172. Thẩm quyền xét xử những
tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc lãnh hải của Việt Nam
Những tội phạm xảy ra trên tàu bay hoặc tàu biển
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động ngoài không phận hoặc
lãnh hải Việt Nam thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án Việt Nam, nơi có sân bay
hoặc bến cảng trở về đầu tiên hoặc nơi tàu bay, tàu biển đó được đăng ký.
Điều 173. Việc xét xử bị cáo phạm
nhiều tội thuộc thẩm quyền của các Tòa án khác cấp
Khi bị cáo phạm nhiều tội, trong đó có tội phạm
thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án cấp trên, thì Tòa án cấp trên xét xử toàn bộ
vụ án.
Điều 174. Chuyển vụ án
Khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền của mình
thì Tòa án chuyển vụ án cho Tòa án có thẩm quyền xét xử. Việc chuyển vụ án cho
Tòa án ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc ngoài phạm vi
quân khu do Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu quyết định.
Chỉ được chuyển vụ án cho Tòa án khác khi vụ án
chưa được xét xử. Trong trường hợp này, việc chuyển vụ án do Chánh án Tòa án
quyết định. Nếu vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án quân sự hoặc Tòa án cấp trên
thì vụ án đã được đưa ra xét xử vẫn phải chuyển cho Tòa án có thẩm quyền. Trong
trường hợp này, việc chuyển vụ án do Hội đồng xét xử quyết định.
Trong thời hạn hai ngày, kể từ ngày ra quyết định
chuyển vụ án, Tòa án phải thông báo cho Viện kiểm sát cùng cấp, báo cho bị cáo
và những người có liên quan trong vụ án.
Điều 175. Giải quyết việc tranh
chấp về thẩm quyền xét xử
1. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét
xử do Chánh án Tòa án cấp trên trực tiếp quyết định.
2. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét
xử giữa các Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương khác nhau, do Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh nơi kết thúc việc điều
tra quyết định.
3. Việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền xét
xử giữa Toà án nhân dân và Tòa án quân sự do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
quyết định.
Chương XVII
CHUẨN BỊ XÉT XỬ
Điều 176. Thời hạn chuẩn bị xét
xử
1. Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân
công chủ tọa phiên tòa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ; giải quyết các khiếu nại
và yêu cầu của những người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần
thiết cho việc mở phiên tòa.
2. Trong thời hạn ba mươi
ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm
nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân
công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định sau đây:
a) Đưa vụ án ra xét xử ;
b) Trả hồ sơ để điều tra
bổ sung;
c) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Đối với những vụ án phức tạp, Chánh án Tòa án có
thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá mười lăm ngày
đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá ba mươi
ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Việc
gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phải được thông báo ngay cho Viện kiểm sát
cùng cấp.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày có quyết
định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do
chính đáng thì Toà án có thể mở phiên toà trong thời hạn ba mươi ngày.
Đối với vụ án được trả lại để điều tra bổ sung
thì trong thời hạn mười lăm ngày sau khi nhận lại hồ sơ, Thẩm phán được phân
công chủ tọa phiên tòa phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Điều 177. Áp dụng, thay đổi hoặc
hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân
công chủ toạ phiên toà có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ
biện pháp ngăn chặn, trừ việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam
do Chánh án hoặc Phó Chánh án Tòa án quyết định.
Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được
quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 của Bộ luật
này.
Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở
phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn
thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Điều 178. Nội dung của quyết định
đưa vụ án ra xét xử
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải ghi rõ:
1. Họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi sinh, nghề
nghiệp, nơi cư trú của bị cáo;
2. Tội danh và điều khoản của Bộ luật hình sự mà
Viện kiểm sát áp dụng đối với hành vi của bị cáo;
3. Ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm mở phiên tòa;
4. Xử công khai hay xử kín;
5. Họ tên Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án; họ
tên Thẩm phán dự khuyết, Hội thẩm dự khuyết, nếu có;
6. Họ tên Kiểm sát viên tham gia phiên toà; họ
tên Kiểm sát viên dự khuyết, nếu có;
7. Họ tên người bào chữa, nếu có;
8. Họ tên người phiên dịch, nếu có;
9. Họ tên những người được triệu tập để xét hỏi
tại phiên toà;
10. Vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên toà.
Điều 179. Quyết định trả hồ sơ để
điều tra bổ sung
1. Thẩm phán ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm
sát để điều tra bổ sung trong những trường hợp sau đây:
a) Khi cần xem xét thêm
những chứng cứ quan trọng đối với vụ án mà không thể bổ sung tại phiên tòa được;
b) Khi có căn cứ để cho rằng
bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác;
c) Khi phát hiện có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Những vấn đề cần điều tra bổ sung phải được nêu
rõ trong quyết định yêu cầu điều tra bổ sung.
2. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn tới việc
đình chỉ vụ án thì Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ vụ án và thông báo cho
Tòa án biết.
Trong trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được
những vấn đề mà Tòa án yêu cầu bổ sung và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì
Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.
Điều 180. Quyết định tạm đình chỉ
hoặc đình chỉ vụ án
Thẩm phán ra quyết định tạm đình chỉ vụ án khi
có căn cứ quy định tại Điều 160 của Bộ luật này; ra quyết định
đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định tại khoản
2 Điều 105 và các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 107 của Bộ luật này hoặc khi Viện
kiểm sát rút toàn bộ quyết định truy tố trước khi mở phiên toà.
Trong trường hợp vụ án có nhiều bị can, bị cáo
mà căn cứ để tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án không liên quan đến tất cả các bị
can, bị cáo thì có thể tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án đối với từng bị can, bị
cáo.
Quyết định đình chỉ vụ án phải ghi rõ nội dung
theo quy định tại khoản 3 Điều 164 của Bộ luật này.
Điều 181. Viện kiểm sát rút quyết
định truy tố
Nếu xét thấy có một trong những căn cứ quy định
tại Điều 107 của Bộ luật này hoặc có căn cứ để miễn trách
nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo theo quy định tại Điều 19, Điều
25 và khoản 2 Điều 69 của Bộ luật hình sự, thì Viện kiểm sát rút quyết định
truy tố trước khi mở phiên tòa và đề nghị Tòa án đình chỉ vụ án.
Điều 182. Việc giao các quyết định
của Tòa án
1. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao
cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của họ và người bào chữa, chậm nhất là mười
ngày trước khi mở phiên tòa.
Trong trường hợp xét xử vắng mặt bị cáo thì quyết
định đưa vụ án ra xét xử và bản cáo trạng được giao cho người bào chữa hoặc người
đại diện hợp pháp của bị cáo; quyết định đưa vụ án ra xét xử còn phải được niêm
yết tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc nơi làm việc cuối
cùng của bị cáo.
2. Quyết định tạm đình chỉ hoặc quyết định đình
chỉ vụ án của Tòa án phải được giao cho bị can, bị cáo, người bào chữa, người bị
hại, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo; những người khác tham tố tụng
thì được gửi giấy báo.
3. Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định
đình chỉ, quyết định tạm đình chỉ vụ án phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát
cùng cấp.
4. Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện
pháp ngăn chặn phải được gửi ngay cho bị can, bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp,
trại tạm giam nơi bị can, bị cáo đang bị tạm giam.
Điều 183. Triệu tập những người
cần xét hỏi đến phiên tòa
Căn cứ vào quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thẩm
phán triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa.
Chương XVIII
QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỦ TỤC
TỐ TỤNG TẠI PHIÊN TÒA
Điều 184. Xét xử trực tiếp, bằng
lời nói và liên tục
1. Tòa án phải trực tiếp xác định những tình tiết
của vụ án bằng cách hỏi và nghe ý kiến của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người
đại diện hợp pháp của họ, người làm chứng, người giám định, xem xét vật chứng
và nghe ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của
đương sự. Bản án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên
tòa.
2. Việc xét xử phải tiến hành liên tục, trừ thời
gian nghỉ.
Điều 185. Thành phần Hội đồng
xét xử sơ thẩm
Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai
Hội thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì Hội đồng
xét xử có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm.
Đối với vụ án mà bị cáo bị đưa ra xét xử về tội
theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì Hội đồng xét xử gồm hai Thẩm
phán và ba Hội thẩm.
Thẩm phán chủ tọa phiên tòa điều khiển việc xét
xử tại phiên tòa và giữ kỷ luật phiên tòa.
Điều 186. Thay thế thành viên của
Hội đồng xét xử trong trường hợp đặc biệt
1. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải xét xử
vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc.
2. Trong quá trình xét xử, nếu có Thẩm phán, Hội
thẩm không tiếp tục tham gia xét xử được thì Tòa án vẫn có thể xét xử vụ án nếu
có Thẩm phán, Hội thẩm dự khuyết. Thẩm phán hoặc Hội thẩm dự khuyết phải có mặt
tại phiên tòa từ đầu thì mới được tham gia xét xử. Trong trường hợp Hội đồng
xét xử có hai Thẩm phán mà Thẩm phán chủ toạ phiên toà không tiếp tục tham gia
xét xử được thì Thẩm phán là thành viên Hội đồng xét xử làm chủ toạ phiên toà
và Thẩm phán dự khuyết được bổ sung làm thành viên Hội đồng xét xử.
3. Trong trường hợp không có Thẩm phán, Hội thẩm
dự khuyết để thay thế hoặc phải thay đổi chủ toạ phiên toà mà không có Thẩm
phán để thay thế theo quy định tại khoản 2 Điều này thì vụ án phải được xét xử
lại từ đầu.
Điều 187. Sự có mặt của bị cáo tại
phiên tòa
1. Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy
triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt không có lý do chính đáng thì bị áp giải
theo thủ tục quy định tại Điều 130 của Bộ luật này; nếu bị
cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa.
Nếu bị cáo bị bệnh tâm thần hoặc bị bệnh hiểm
nghèo khác thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án cho đến khi bị cáo khỏi bệnh.
Nếu bị cáo trốn tránh thì Hội đồng xét xử tạm
đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo.
2. Tòa án chỉ có thể xử vắng mặt bị cáo trong những
trường hợp sau đây:
a) Bị cáo trốn tránh và
việc truy nã không có kết quả;
b) Bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập
đến phiên tòa;
c) Nếu sự vắng mặt của bị cáo không trở ngại cho
việc xét xử và họ đã được giao giấy triệu tập hợp lệ.
Điều 188. Giám sát bị cáo tại
phiên tòa
1. Bị cáo đang bị tạm giam khi ra phiên tòa chỉ
được tiếp xúc với người bào chữa. Việc tiếp xúc với những người khác phải được
phép của chủ tọa phiên tòa.
2. Bị cáo không bị tạm giam phải có mặt tại
phiên tòa trong suốt thời gian xét xử vụ án.
Điều 189. Sự có mặt của Kiểm sát
viên
1. Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp phải
tham gia phiên tòa. Đối với vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì hai
Kiểm sát viên có thể cùng tham gia phiên tòa. Trong trường hợp cần thiết có thể
có Kiểm sát viên dự khuyết.
2. Nếu Kiểm sát viên vắng mặt, bị thay đổi mà
không có Kiểm sát viên dự khuyết để thay thế thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa
và báo ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp.
Điều 190. Sự có mặt của người
bào chữa
Người bào chữa có nghĩa vụ tham gia phiên tòa.
Người bào chữa có thể gửi trước bản bào chữa cho Tòa án. Nếu người bào chữa vắng
mặt Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử.
Trong trường hợp bắt buộc phải
có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của Bộ luật
này mà người bào chữa vắng mặt, thì Hội đồng xét xử
phải hoãn phiên tòa.
Điều 191. Sự có mặt của người bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến
vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ
1. Nếu người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn
dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp
pháp của họ vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên
tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
2. Nếu thấy sự vắng mặt của người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự chỉ trở ngại cho việc giải quyết vấn đề bồi thường
thì Hội đồng xét xử có thể tách việc bồi thường để xét xử sau theo thủ tục tố tụng
dân sự.
Điều 192. Sự có mặt của người
làm chứng
Người làm chứng tham gia phiên tòa để làm sáng tỏ
các tình tiết của vụ án. Nếu người làm chứng vắng mặt nhưng trước đó đã có lời
khai ở Cơ quan điều tra thì chủ tọa phiên tòa công bố những lời khai đó. Nếu
người làm chứng về những vấn đề quan trọng vắng mặt thì tùy trường hợp, Hội đồng
xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
Trong trường hợp người làm chứng được Toà án triệu
tập nhưng cố ý không đến mà không có lý do chính đáng và việc vắng mặt của họ
gây trở ngại cho việc xét xử thì Hội đồng xét xử có thể ra quyết định dẫn giải.
Thủ tục dẫn giải người làm chứng được thực hiện theo quy định tại Điều 134 của Bộ luật này.
Điều 193. Sự có mặt của người
giám định
1. Người giám định tham gia phiên tòa khi được
Tòa án triệu tập.
2. Nếu người giám định vắng mặt thì tùy trường hợp,
Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử.
Điều 194. Thời hạn hoãn phiên
tòa
Trong trường hợp phải hoãn phiên tòa theo quy định
tại các điều 45, 46, 47, 187, 189, 190,
191, 192 và 193 của Bộ luật này, thì thời hạn hoãn phiên
tòa sơ thẩm không được quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên
tòa.
Điều 195. Kiểm sát viên rút quyết
định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên toà
Tại phiên tòa, sau khi xét hỏi, Kiểm sát viên có
thể rút một phần hay toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn,
nhưng Hội đồng xét xử vẫn phải xét xử toàn bộ vụ án.
Điều 196. Giới hạn của việc xét
xử
Tòa án chỉ xét xử những bị cáo và những hành vi
theo tội danh mà Viện kiểm sát truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.
Toà án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác với khoản
mà Viện kiểm sát đã truy tố trong cùng một điều luật hoặc về một tội khác bằng
hoặc nhẹ hơn tội mà Viện kiểm sát đã truy tố.
Điều 197. Nội quy phiên tòa
1. Trước khi bắt đầu phiên tòa, Thư ký Tòa án phải
phổ biến nội quy phiên tòa.
2. Mọi người ở trong phòng xử án đều phải có
thái độ tôn trọng Hội đồng xét xử, giữ gìn trật tự và tuân theo sự điều khiển của
chủ tọa phiên tòa.
3. Mọi người ở trong phòng xử án đều phải đứng dậy
khi Hội đồng xét xử vào phòng xử án. Những người được Tòa án triệu tập để xét hỏi
được trình bày ý kiến và người nào muốn trình bày phải được chủ tọa phiên tòa
cho phép. Người trình bày ý kiến phải đứng khi được hỏi, trừ trường hợp vì lý
do sức khỏe được chủ tọa phiên tòa cho phép ngồi để trình bày.
4. Những người dưới 16 tuổi không được vào phòng
xử án, trừ trường hợp được Tòa án triệu tập để xét hỏi.
Điều 198. Những biện pháp đối với
người vi phạm trật tự phiên tòa
Những người vi phạm trật tự phiên tòa thì tùy
trường hợp, có thể bị chủ tọa phiên tòa cảnh cáo, phạt tiền, buộc rời khỏi
phòng xử án hoặc bị bắt giữ.
Người bảo vệ phiên tòa có nhiệm vụ bảo vệ trật tự
phiên tòa và thi hành lệnh của chủ tọa phiên tòa về việc buộc rời khỏi phòng xử
án hoặc bắt giữ người gây rối trật tự tại phiên tòa.
Điều 199. Việc ra bản án và các
quyết định của Tòa án
1. Bản án của Tòa án quyết định việc bị cáo có
phạm tội hay không phạm tội, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác. Bản án phải
được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án.
2. Quyết định về việc thay
đổi thành viên của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định,
người phiên dịch, chuyển vụ án, yêu cầu điều tra bổ sung, tạm đình chỉ hoặc
đình chỉ vụ án và về việc bắt giam hoặc trả tự do cho bị cáo phải được thảo luận
và thông qua tại phòng nghị án và phải được lập thành văn bản.
3. Quyết định về các vấn đề khác được Hội đồng
xét xử thảo luận và thông qua tại phòng xử án, không phải lập thành văn bản,
nhưng phải được ghi vào biên bản phiên tòa.
Điều 200. Biên bản phiên tòa
1. Biên bản phiên tòa phải ghi rõ ngày, giờ,
tháng, năm, địa điểm của phiên tòa và mọi diễn biến ở phiên tòa từ khi bắt đầu
cho đến khi tuyên án. Cùng với việc ghi biên bản, có thể ghi âm, ghi hình về diễn
biến phiên tòa.
2. Những câu hỏi và những câu trả lời đều phải
được ghi vào biên bản.
3. Sau khi kết thúc phiên tòa, chủ tọa phiên tòa
phải kiểm tra biên bản và cùng với Thư ký Tòa án ký vào biên bản đó.
4. Kiểm sát viên, bị cáo,
người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hoặc đại
diện hợp pháp của những người đó được xem biên bản phiên tòa, có quyền yêu cầu
ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên tòa và ký xác nhận.
Chương XIX
THỦ TỤC BẮT ĐẦU PHIÊN
TÒA
Điều 201. Thủ tục bắt đầu phiên
tòa
Khi bắt đầu phiên tòa, chủ tọa phiên tòa đọc quyết
định đưa vụ án ra xét xử.
Sau khi nghe Thư ký Tòa án báo cáo danh sách những
người được triệu tập đã có mặt, chủ tọa phiên tòa kiểm tra căn cước của những
người đó và giải thích cho họ biết quyền và nghĩa vụ của họ tại phiên tòa.
Trong trường hợp bị cáo chưa được giao nhận bản
cáo trạng theo quy định tại khoản 2 Điều 49 và quyết định
đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều
182 của Bộ luật này và nếu bị cáo yêu cầu thì Hội đồng xét xử phải hoãn
phiên tòa.
Điều 202. Giải quyết việc đề nghị
thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định,
người phiên dịch
Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng phải
được chủ toạ phiên toà hỏi xem họ có đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm
sát viên, Thư ký Tòa án, người giám định, người phiên dịch hay không. Nếu có
người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết định.
Điều 203. Giải thích quyền và
nghĩa vụ của người phiên dịch, người giám định
Nếu có người phiên dịch, người giám định tham
gia phiên tòa thì chủ tọa phiên tòa giới thiệu họ tên, nghề nghiệp hoặc chức vụ
của những người đó và giải thích rõ những quyền và nghĩa vụ của họ. Những người
này phải cam đoan làm tròn nhiệm vụ.
Điều 204. Giải thích quyền,
nghĩa vụ và cách ly người làm chứng
1. Sau khi đã hỏi họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi
cư trú của từng người làm chứng, chủ tọa phiên tòa giải thích rõ quyền và nghĩa
vụ tố tụng của họ. Người làm chứng phải cam đoan không khai gian dối. Riêng người
làm chứng chưa thành niên không phải cam đoan.
2. Trước khi người làm chứng được hỏi về vụ án,
chủ tọa phiên tòa có thể quyết định những biện pháp để cho những người làm chứng
không nghe được lời khai của nhau hoặc tiếp xúc với những người có liên quan.
Trong trường hợp lời khai của bị cáo và người làm chứng có ảnh hưởng lẫn nhau
thì chủ tọa phiên tòa có thể quyết định cách ly bị cáo với người làm chứng trước
khi hỏi người làm chứng.
Điều 205. Giải quyết những yêu cầu
về xem xét chứng cứ và hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt
Chủ tọa phiên tòa phải hỏi Kiểm sát viên và những
người tham gia tố tụng xem ai có yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc
yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu ra xem xét hay không. Nếu có người tham
gia tố tụng vắng mặt thì chủ tọa phiên tòa cũng phải hỏi xem có ai yêu cầu hoãn
phiên tòa hay không. Nếu có người yêu cầu thì Hội đồng xét xử xem xét và quyết
định.
Chương XX
THỦ TỤC XÉT HỎI TẠI
PHIÊN TÒA
Điều 206. Đọc bản cáo trạng
Trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản
cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung, nếu có.
Điều 207. Trình tự xét hỏi
1. Hội đồng xét xử phải xác định đầy đủ các tình
tiết về từng sự việc và về từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý.
2. Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tòa hỏi
trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo
vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham gia phiên tòa cũng có quyền đề nghị
với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ. Người giám định
được hỏi về những vấn đề có liên quan đến việc giám định.
3. Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét những vật
chứng có liên quan trong vụ án.
Điều 208. Công bố những lời khai
tại Cơ quan điều tra
1. Nếu người được xét hỏi có mặt tại phiên tòa
thì Hội đồng xét xử và Kiểm sát viên không được nhắc hoặc công bố lời khai của
họ tại Cơ quan điều tra trước khi họ khai tại phiên tòa về những tình tiết của
vụ án.
2. Chỉ được công bố những lời khai tại Cơ quan điều
tra trong những trường hợp sau đây:
a) Lời khai của người được xét hỏi tại phiên tòa
có mâu thuẫn với lời khai của họ tại Cơ quan điều tra;
b) Người được xét hỏi không khai tại phiên tòa;
c) Người được xét hỏi vắng mặt hoặc đã chết.
Điều 209. Hỏi bị cáo
1. Hội đồng xét xử phải hỏi riêng từng bị cáo. Nếu
lời khai của bị cáo này có thể ảnh hưởng đến lời khai của bị cáo khác thì chủ tọa
phiên tòa phải cách ly họ. Trong trường hợp này, bị cáo bị cách ly được thông
báo lại nội dung lời khai của bị cáo trước và có quyền đặt câu hỏi đối với bị
cáo đó.
2. Bị cáo trình bày ý kiến về bản cáo trạng và
những tình tiết của vụ án. Hội đồng xét xử hỏi thêm về những điểm mà bị cáo
trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
3. Kiểm sát viên hỏi về những tình tiết của vụ
án liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội bị cáo. Người bào chữa hỏi về những tình
tiết liên quan đến việc bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự hỏi về những
tình tiết liên quan đến việc bảo vệ quyền lợi của đương sự. Những người tham
gia phiên toà có quyền đề nghị với chủ toạ phiên toà hỏi thêm về những tình tiết
liên quan đến họ.
4. Nếu bị cáo không trả lời các câu hỏi thì Hội đồng
xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự tiếp
tục hỏi những người khác và xem xét vật chứng, tài liệu có liên quan đến vụ án.
Điều 210. Hỏi người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án hoặc người đại diện hợp pháp của họ
Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của
những người đó trình bày về những tình tiết của vụ án có liên quan đến họ. Sau
đó, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của
đương sự hỏi thêm về những điểm mà họ trình bày chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn.
Điều 211. Hỏi người làm chứng
1. Hội đồng xét xử phải hỏi riêng từng người làm
chứng và không để cho những người làm chứng khác biết được nội dung xét hỏi đó.
2. Khi hỏi người làm chứng, Hội đồng xét xử phải
hỏi rõ về quan hệ giữa họ với bị cáo và các đương sự trong vụ án. Chủ tọa phiên
toà yêu cầu người làm chứng trình bày rõ những tình tiết vụ án mà họ đã biết,
sau đó hỏi thêm về những điểm mà họ khai chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn. Kiểm
sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự có thể hỏi thêm
người làm chứng.
3. Nếu người làm chứng là người chưa thành niên
thì chủ tọa phiên toà có thể yêu cầu cha, mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy giáo, cô
giáo giúp đỡ để hỏi.
4. Sau khi đã trình bày xong, người làm chứng ở
lại phòng xử án để có thể được hỏi thêm.
5. Trong trường hợp cần
thiết phải bảo đảm an toàn cho người làm chứng và những người thân thích của họ,
Hội đồng xét xử phải quyết định thực hiện biện pháp bảo vệ theo quy định của
pháp luật.
Điều 212. Xem xét vật chứng
1. Vật chứng, ảnh hoặc biên bản xác nhận vật chứng
được đưa ra để xem xét tại phiên tòa.
Khi cần thiết, Hội đồng xét xử có thể cùng với
Kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa đến xem
xét tại chỗ những vật chứng không thể đưa đến phiên tòa được. Việc xem xét tại
chỗ phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật
này.
2. Kiểm sát viên, người bào chữa và những người
khác tham gia phiên tòa có quyền trình bày những nhận xét của mình về vật chứng.
Hội đồng xét xử có thể hỏi thêm về những vấn đề có liên quan đến vật chứng.
Điều 213. Xem xét tại chỗ
Nếu xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử có thể
cùng với Kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác tham gia phiên tòa đến
xem xét nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác có liên quan đến vụ án.
Kiểm sát viên, người bào chữa và những người khác tham gia phiên toà có quyền
trình bày nhận xét của mình về nơi đã xảy ra tội phạm hoặc những địa điểm khác
có liên quan đến vụ án.
Hội đồng xét xử có thể hỏi thêm những người tham
gia phiên toà về những vấn đề có liên quan đến những nơi đó.
Việc xem xét tại chỗ phải được lập biên bản theo
thủ tục chung quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
Điều 214. Việc trình bày, công bố
các tài liệu của vụ án và nhận xét, báo cáo của cơ quan, tổ chức
Nhận xét, báo cáo của cơ quan, tổ chức về những
tình tiết của vụ án do đại diện của cơ quan, tổ chức đó trình bày; trong trường
hợp không có đại diện của cơ quan, tổ chức đó tham dự thì Hội đồng xét xử công
bố nhận xét, báo cáo tại phiên tòa.
Các tài liệu đã có trong hồ sơ vụ án hoặc mới
đưa ra khi xét hỏi đều phải được công bố tại phiên tòa.
Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những
người khác tham gia phiên tòa có quyền nhận xét về những tài liệu đó và hỏi
thêm những vấn đề có liên quan.
Điều 215. Hỏi người giám định
1. Người giám định trình bày kết luận của mình về
vấn đề được giao giám định.
2. Tại phiên tòa, người giám định có quyền giải
thích bổ sung trên cơ sở kết luận giám định.
3. Nếu người giám định vắng mặt, thì chủ tọa
phiên tòa công bố kết luận giám định.
4. Kiểm sát viên, người bào chữa và những người
khác tham gia phiên tòa có quyền nhận xét về kết luận giám định, được hỏi những
vấn đề còn chưa rõ hoặc có mâu thuẫn trong kết luận giám định.
5. Khi xét thấy cần thiết, Hội đồng xét xử quyết
định giám định bổ sung hoặc giám định lại.
Điều 216. Kết thúc xét hỏi
Khi nhận thấy các tình tiết của vụ án đã được
xem xét đầy đủ thì chủ tọa phiên tòa hỏi Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa
và những người khác tham gia phiên tòa xem họ có yêu cầu xét hỏi vấn đề gì nữa
không. Nếu có người yêu cầu và xét thấy yêu cầu đó là cần thiết thì chủ tọa phiên
tòa quyết định tiếp tục việc xét hỏi.
Chương XXI
TRANH LUẬN TẠI PHIÊN
TÒA
Điều 217. Trình tự phát biểu khi
tranh luận
1. Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa,
Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một
phần nội dung cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; nếu thấy không có căn cứ
để kết tội thì rút toàn bộ quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên
bố bị cáo không có tội.
Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những
tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên toà và ý kiến của bị cáo, người
bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và những người tham gia tố tụng
khác tại phiên toà.
2. Bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có
người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến
bào chữa.
3. Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự
và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp
pháp của họ được trình bày ý kiến để bảo vệ quyền và lợi ích của mình; nếu có
người bảo vệ quyền lợi cho họ thì người này có quyền trình bày, bổ sung ý kiến.
Điều 218. Đối đáp
Bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác có quyền trình bày ý kiến về luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề
nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra những lập luận của mình đối với từng ý
kiến.
Người tham gia tranh luận có quyền đáp lại ý kiến
của người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, tạo điều
kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý kiến, nhưng có quyền cắt
những ý kiến không có liên quan đến vụ án.
Chủ tọa phiên tòa có quyền đề nghị Kiểm sát viên
phải đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác mà những ý kiến đó chưa được Kiểm sát viên tranh luận.
Điều 219. Trở lại việc xét hỏi
Nếu qua tranh luận mà thấy cần xem xét thêm chứng
cứ thì Hội đồng xét xử có thể quyết định trở lại việc xét hỏi. Xét hỏi xong phải
tiếp tục tranh luận.
Điều 220. Bị cáo nói lời sau
cùng
Sau khi những người tham gia tranh luận không
trình bày gì thêm, chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc tranh luận.
Bị cáo được nói lời sau cùng. Không được đặt câu
hỏi khi bị cáo nói lời sau cùng. Hội đồng xét xử có quyền yêu cầu bị cáo không
được trình bày những điểm không liên quan đến vụ án, nhưng không được hạn chế
thời gian đối với bị cáo.
Nếu trong lời nói sau cùng, bị cáo trình bày
thêm tình tiết mới có ý nghĩa quan trọng đối với vụ án, thì Hội đồng xét xử phải
quyết định trở lại việc xét hỏi.
Điều 221. Xem xét việc rút quyết
định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn
1. Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định
truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ
án.
2. Trong trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ
quyết định truy tố thì trước khi nghị án, Hội đồng xét xử yêu cầu những người
tham gia tố tụng tại phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút truy tố đó.
Chương XXII
NGHỊ ÁN VÀ TUYÊN ÁN
Điều 222. Nghị án
1. Chỉ Thẩm phán và Hội thẩm mới có quyền nghị
án. Các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ
án bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề một. Thẩm phán biểu quyết sau
cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản
và được đưa vào hồ sơ vụ án.
2. Trong trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ
quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử vẫn giải quyết những vấn đề của vụ án
theo trình tự quy định tại khoản 1 Điều này. Nếu có căn cứ xác định bị cáo
không có tội thì Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không có tội; nếu thấy việc
rút truy tố không có căn cứ thì quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị với
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
3. Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ
và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện
các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác tại phiên toà.
4. Khi nghị án phải có biên bản ghi lại các ý kiến
đã thảo luận và quyết định của Hội đồng xét xử. Biên bản nghị án phải được tất
cả các thành viên Hội đồng xét xử ký tại phòng nghị án trước khi tuyên án.
Điều 223. Trở lại việc xét hỏi
và tranh luận
Qua việc nghị án nếu thấy có tình tiết của vụ án
chưa được xét hỏi hoặc xét hỏi chưa đầy đủ thì Hội đồng xét xử
quyết định trở lại việc xét hỏi và tranh luận.
Điều 224. Bản án
1. Toà án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
2. Trong bản án cần phải
ghi rõ: ngày, giờ, tháng, năm và địa điểm phiên toà; họ tên của các thành viên Hội
đồng xét xử và Thư ký Toà án; họ tên của Kiểm sát viên; họ tên, ngày, tháng,
năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành phần xã hội,
tiền án, tiền sự của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam; họ tên, tuổi,
nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của bị cáo; họ
tên của người bào chữa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, người đại diện hợp pháp của họ.
3. Trong bản án phải trình bày việc phạm tội của
bị cáo, phân tích những chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định không có
tội, xác định bị cáo có phạm tội hay không và nếu bị cáo phạm tội thì phạm tội
gì, theo điều, khoản nào của Bộ luật hình sự, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự và cần phải xử lý như thế nào. Nếu bị cáo không phạm tội
thì bản án phải ghi rõ những căn cứ xác định bị cáo không có tội và phải giải
quyết việc khôi phục danh dự, quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Phần cuối cùng
của bản án ghi những quyết định của Toà án và quyền kháng cáo đối với bản án.
Điều 225. Kiến nghị sửa chữa những khuyết điểm
trong công tác quản lý
1. Cùng với việc ra bản án, Tòa án ra kiến nghị
cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng những biện pháp cần thiết để khắc phục những
nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm tại các cơ quan, tổ chức đó. Trong
thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị của Tòa án, cơ quan, tổ
chức đó phải thông báo bằng văn bản cho Tòa án biết những biện pháp được áp dụng.
2. Kiến nghị của Tòa án có thể được đọc tại
phiên tòa cùng với bản án hoặc chỉ gửi riêng cho cơ quan, tổ chức hữu quan.
Điều 226. Tuyên án
Khi tuyên án mọi người trong phòng xử án phải đứng
dậy. Chủ tọa phiên tòa hoặc một thành viên khác của Hội đồng xét xử đọc bản án
và sau khi đọc xong có thể giải thích thêm về việc chấp hành bản án và quyền
kháng cáo.
Nếu bị cáo không biết tiếng Việt thì sau khi
tuyên án, người phiên dịch phải đọc lại cho bị cáo nghe toàn bộ bản án sang thứ
tiếng mà bị cáo biết.
Điều 227. Trả tự do cho bị cáo
Trong những trường hợp sau đây, Hội đồng xét xử
phải tuyên bố trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo đang bị tạm giam, nếu họ
không bị tạm giam về một tội phạm khác:
1. Bị cáo không có tội;
2. Bị cáo được miễn trách nhiệm hình sự hoặc được
miễn hình phạt;
3. Bị cáo bị xử phạt bằng các hình phạt không phải
là hình phạt tù;
4. Bị cáo bị xử phạt tù,
nhưng được hưởng án treo;
5. Thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời gian
bị cáo đã bị tạm giam.
Điều 228. Bắt tạm giam bị cáo
sau khi tuyên án
1. Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà bị phạt tù
nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử
ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp được
quy định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp bị cáo không bị tạm giam
nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bị bắt tạm giam để chấp hành hình phạt khi bản án
đã có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử có thể ra quyết định bắt tạm giam
ngay bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội.
3. Thời hạn tạm giam bị cáo quy định tại khoản 1
và khoản 2 Điều này là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.
4. Đối với bị cáo bị phạt tử hình thì Hội đồng
xét xử quyết định trong bản án việc tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi
hành án.
Điều 229. Việc giao bản án
Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày tuyên án,
Tòa án cấp sơ thẩm phải giao bản án cho bị cáo, Viện kiểm sát cùng cấp, người
bào chữa; gửi bản án cho người bị xử vắng mặt, cơ quan Công an cùng cấp; thông
báo bằng văn bản cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
bị cáo cư trú hoặc làm việc.
Trong trường hợp xử vắng mặt bị cáo theo quy định
tại điểm a hoặc điểm b khoản 2 Điều 187 của Bộ luật này thì
trong thời hạn nêu trên bản án phải được niêm yết tại trụ sở chính quyền xã,
phường, thị trấn nơi cư trú hoặc nơi làm việc cuối cùng của bị cáo.
Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ có liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp
pháp của họ có quyền yêu cầu Toà án cấp trích lục bản án hoặc bản sao bản án.
Phần thứ tư
XÉT XỬ PHÚC THẨM
Chương XXIII
TÍNH CHẤT CỦA XÉT XỬ
PHÚC THẨM VÀ QUYỀN KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ
Điều 230. Tính chất của xét xử
phúc thẩm
Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp
xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm
đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.
Điều 231. Những người có quyền
kháng cáo
Bị cáo, người bị hại, người đại diện hợp pháp của
họ có quyền kháng cáo bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
Người bào chữa có quyền kháng cáo để bảo vệ lợi
ích của người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người đại diện
hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến
việc bồi thường thiệt hại.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án
và người đại diện hợp pháp của họ có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định
có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ.
Người bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên
hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo phần bản
án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà
mình bảo vệ.
Người được Toà án tuyên bố là không có tội có
quyền kháng cáo phần lý do bản án sơ thẩm đã tuyên là họ không có tội.
Điều 232. Kháng nghị của Viện kiểm
sát
Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm.
Điều 233. Thủ tục kháng cáo và
kháng nghị
1. Người kháng cáo phải gửi đơn đến Tòa án đã xử
sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc thẩm. Trong trường hợp bị cáo đang bị tạm giam,
Ban giám thị trại tạm giam phải bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền kháng cáo.
Người kháng cáo cũng có thể trình bày trực tiếp
với Tòa án đã xử sơ thẩm về việc kháng cáo. Tòa án phải lập biên bản về việc
kháng cáo đó theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
2. Viện kiểm sát cùng cấp
hoặc Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kháng nghị bằng văn bản, có nêu rõ lý do.
Kháng nghị được gửi đến Tòa án đã xử sơ thẩm.
Điều 234. Thời hạn kháng cáo,
kháng nghị
1. Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ
ngày tuyên án. Đối với bị cáo, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn
kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết.
Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp
là mười lăm ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ
ngày tuyên án.
2. Nếu đơn kháng cáo gửi qua bưu điện thì ngày
kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong bì. Trong
trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị trại tạm giam, thì ngày kháng cáo
được tính căn cứ vào ngày Ban giám thị trại tạm giam nhận được đơn.
Điều 235. Kháng cáo quá hạn
1. Việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận,
nếu có lý do chính đáng.
2. Tòa án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng xét xử
gồm ba Thẩm phán để xét lý do kháng cáo quá hạn. Hội đồng xét xử có quyền ra
quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn.
Điều 236. Thông báo về việc
kháng cáo, kháng nghị
1. Việc kháng cáo, kháng nghị phải được Toà án cấp
sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham
gia tố tụng trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị.
2. Người được thông báo về việc kháng cáo, kháng
nghị có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng cáo, kháng nghị
cho Toà án cấp phúc thẩm. ý kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án.
Điều 237. Hậu quả của việc kháng
cáo, kháng nghị
1. Những phần của bản án bị kháng cáo, kháng nghị
thì chưa được đưa ra thi hành, trừ trường hợp quy định tại khoản
2 Điều 255 của Bộ luật này. Khi có kháng cáo, kháng nghị đối với toàn bộ bản
án thì toàn bộ bản án chưa được đưa ra thi hành.
2. Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án và
kháng cáo, kháng nghị cho Tòa áp cấp phúc thẩm trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày hết hạn kháng cáo, kháng nghị.
Điều 238. Bổ sung, thay đổi, rút
kháng cáo, kháng nghị
1. Trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm,
người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng
nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; rút một phần hoặc toàn
bộ kháng cáo, kháng nghị.
2. Trong trường hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng
nghị tại phiên tòa thì việc xét xử phúc thẩm phải được đình chỉ. Bản án sơ thẩm
có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc
xét xử phúc thẩm.
Điều 239. Kháng cáo, kháng nghị
những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
1. Thời hạn kháng nghị đối với các quyết định của
Tòa án cấp sơ thẩm của Viện kiểm sát cùng cấp là bảy ngày, của Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp là mười lăm ngày, kể từ ngày Tòa án ra quyết định.
2. Quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án của
Tòa án cấp sơ thẩm có thể bị kháng cáo trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày người
có quyền kháng cáo nhận được quyết định.
Điều 240. Hiệu lực của bản án,
quyết định sơ thẩm của Tòa án không có kháng cáo, kháng nghị
Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết
định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật
kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Chương XXIV
THỦ TỤC XÉT XỬ PHÚC THẨM
Điều 241. Phạm vi xét xử phúc thẩm
Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo,
kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần
khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án.
Điều 242. Thời hạn xét xử phúc
thẩm
Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp
quân khu phải mở phiên toà phúc thẩm trong thời hạn sáu mươi ngày; Tòa phúc thẩm
Tòa án nhân dân tối cao, Tòa án quân sự trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm
trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án.
Chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày mở phiên
toà, Toà án cấp phúc thẩm phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp
và những người tham gia tố tụng về thời gian, địa điểm xét xử phúc thẩm vụ án.
Điều 243. Việc Tòa án cấp phúc
thẩm áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn
1. Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Tòa án cấp phúc thẩm
có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Việc
áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam do Chánh án, Phó Chánh án Toà
án nhân dân cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu, Thẩm phán giữ chức vụ Chánh
toà, Phó Chánh toà Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao quyết định.
Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn xét xử
phúc thẩm quy định tại Điều 242 của Bộ luật này.
2. Đối với bị cáo đang bị
tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp
tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Toà án ra lệnh tạm giam cho đến khi
kết thúc phiên tòa.
3. Đối với bị cáo đang bị tạm giam bị xử phạt tù
mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử ra
quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp được quy
định tại khoản 4 và khoản 5 Điều 227 của Bộ luật này.
Đối với bị cáo không bị tạm giam, nhưng bị xử phạt
tù thì Hội đồng xét xử có thể ra quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi
tuyên án, trừ các trường hợp quy định tại Điều 261 của Bộ luật
này.
Thời hạn tạm giam là bốn mươi lăm ngày, kể từ
ngày tuyên án.
Điều 244. Thành phần Hội đồng
xét xử phúc thẩm
Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và
trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm.
Điều 245. Những người tham gia
phiên tòa phúc thẩm
1. Tại phiên tòa phúc thẩm, sự tham gia của Kiểm
sát viên Viện kiểm sát cùng cấp là bắt buộc, nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải
hoãn phiên tòa.
2. Người bào chữa, người bảo
vệ quyền lợi của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến việc kháng cáo, kháng nghị được triệu tập tham gia phiên tòa. Nếu có
người vắng mặt mà có lý do chính đáng thì Hội đồng xét xử có thể vẫn tiến hành
xét xử nhưng không được ra bản án hoặc quyết định không có lợi cho bị cáo hoặc
đương sự vắng mặt. Trong các trường hợp khác thì phải hoãn phiên tòa.
Thời hạn hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản
1, khoản 2 Điều này hoặc tại các điều 45, 46, và 47 của Bộ luật
này không được quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.
3. Sự tham gia phiên tòa của những người khác do
Tòa án cấp phúc thẩm quyết định, nếu xét thấy sự có mặt của họ là cần thiết.
Điều 246. Bổ sung, xem xét chứng
cứ tại Tòa án cấp phúc thẩm
1. Trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại
phiên tòa, Viện kiểm sát có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của Tòa án bổ sung chứng
cứ mới; người đã kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng
có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật.
2. Chứng cứ cũ, chứng cứ mới, tài liệu, đồ vật mới
bổ sung đều phải được xem xét tại phiên tòa. Bản án của Tòa án cấp phúc thẩm phải
căn cứ vào cả chứng cứ cũ và mới.
Điều 247. Thủ tục phiên toà phúc
thẩm
Phiên tòa phúc thẩm cũng tiến hành như phiên tòa
sơ thẩm nhưng trước khi xét hỏi, một thành viên của Hội đồng xét xử phải trình
bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung của kháng
cáo hoặc kháng nghị. Khi tranh luận, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm của Viện
kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
Điều 248. Bản án phúc thẩm và thẩm
quyền của Toà án cấp phúc thẩm
1. Tòa án ra bản án nhân danh nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Trong bản án cần phải
ghi rõ: ngày, giờ, tháng, năm và địa điểm phiên tòa; họ tên của các thành viên
Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án; họ tên của Kiểm sát viên; họ tên, ngày,
tháng, năm sinh, nơi sinh, nơi cư trú, nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thành phần
xã hội, tiền án, tiền sự của bị cáo; ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam; họ tên,
tuổi, nghề nghiệp, nơi sinh, nơi cư trú của người đại diện hợp pháp của bị cáo;
họ tên của người bào chữa; họ tên, tuổi, nghề nghiệp, nơi cư trú của người bị hại,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, người đại diện hợp pháp của họ.
Trong bản án
phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quá trình giải quyết vụ án, quyết định của
bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị và các căn cứ để đưa ra một
trong các quyết định quy định tại khoản 2 Điều này. Phần cuối cùng của bản án
ghi những quyết định của Toà án.
2. Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định:
a) Không chấp nhận kháng
cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm;
b) Sửa bản án sơ thẩm;
c) Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều
tra lại hoặc xét xử lại;
d) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày tuyên án.
Điều 249. Sửa bản án sơ thẩm
1. Tòa án cấp phúc thẩm có quyền sửa bản án sơ
thẩm như sau:
a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt
cho bị cáo;
b) áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ
hơn;
c) Giảm hình phạt cho bị cáo;
d) Giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định
xử lý vật chứng;
đ) Chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ
hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo.
2. Nếu có căn cứ, Tòa án cấp phúc thẩm có thể giảm
hình phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang
hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án
treo cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.
3. Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc
người bị hại kháng cáo yêu cầu thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể tăng hình phạt,
áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại,
nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn
dân sự; nếu có căn cứ, Tòa án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật
hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ
nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại.
Điều 250. Hủy bản án sơ thẩm để điều
tra lại hoặc xét xử lại
1. Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều
tra lại khi nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm
không thể bổ sung được.
2. Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để
xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần Hội đồng xét xử mới trong những trường
hợp sau đây:
a) Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm không đúng
luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng;
b) Người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố không
có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội.
3. Khi hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc
xét xử lại, Toà án cấp phúc thẩm phải ghi rõ lý do của việc hủy bản án sơ thẩm.
4. Khi huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại, Toà án
cấp phúc thẩm không quyết định trước những chứng cứ mà Toà án cấp sơ thẩm cần
phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ, cũng như không quyết định trước về điều khoản
Bộ luật hình sự và hình phạt mà Toà án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng.
5. Trong trường hợp hủy bản án sơ thẩm để điều
tra lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy
việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm ra
quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp
sơ thẩm thụ lý lại vụ án.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hủy bản
án sơ thẩm, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ
thẩm để giải quyết theo thủ tục chung.
Điều 251. Hủy bản án sơ thẩm và
đình chỉ vụ án
Khi có một trong những căn cứ quy định tại điểm 1 và điểm 2 Điều 107 của Bộ luật này thì Tòa án cấp phúc
thẩm hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án; nếu có
một trong những căn cứ quy định tại các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều
107 của Bộ luật này thì hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Điều 252. Điều tra lại hoặc xét
xử lại vụ án hình sự
Sau khi Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm
để điều tra lại hoặc xét xử lại thì Cơ quan điều tra tiến hành điều tra lại, Viện
kiểm sát truy tố lại và Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại vụ án theo thủ tục chung.
Điều 253. Phúc thẩm những quyết
định của Tòa án cấp sơ thẩm
1. Đối với những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
bị kháng nghị hoặc kháng cáo, Tòa án cấp phúc thẩm không phải mở phiên toà,
nhưng nếu xét cần thì có thể triệu tập những người tham gia tố tụng cần thiết để
nghe ý kiến của họ trước khi Tòa án ra quyết định.
2. Tòa án cấp phúc thẩm phải ra quyết định giải
quyết việc kháng cáo hoặc kháng nghị trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận
được hồ sơ vụ án.
3. Khi xét những quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
bị kháng cáo, kháng nghị, Tòa án cấp phúc thẩm có những quyền hạn quy định tại Điều 248 của Bộ luật này.
4. Quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể
từ ngày ra quyết định.
Điều 254. Việc giao bản án và
quyết định phúc thẩm
Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày tuyên án hoặc
kể từ ngày ra quyết định, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi bản án hoặc quyết định
phúc thẩm cho người kháng nghị, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an nơi đã xử
sơ thẩm, người đã kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ, Cơ quan thi hành án
dân sự có thẩm quyền trong trường hợp bản án phúc thẩm có tuyên hình phạt tiền,
tịch thu tài sản và quyết định dân sự; thông báo bằng văn bản cho chính quyền
xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi bị cáo cư trú hoặc làm việc.
Trong trường hợp Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao xử phúc thẩm thì thời hạn
này có thể dài hơn nhưng không quá hai mươi lăm ngày.
Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của
họ có quyền yêu cầu Tòa án cấp trích lục bản án hoặc bản sao bản án.
Phần thứ năm
THI HÀNH BẢN ÁN VÀ QUYẾT
ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN
Chương XXV
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ
THI HÀNH BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Điều 255. Những bản án và quyết
định được thi hành
1. Những bản án và quyết định được thi hành là
những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm:
a) Những bản án và quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm;
b) Những bản án và quyết định của Tòa án cấp
phúc thẩm;
c) Những quyết định của Tòa án giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm.
2. Trong trường hợp bị cáo
đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội,
miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, hình phạt không phải là tù
giam hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo hoặc khi thời hạn phạt tù bằng hoặc
ngắn hơn thời hạn đã tạm giam thì bản án hoặc quyết định của Tòa án được thi
hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng nghị, kháng cáo.
Điều 256. Thủ tục đưa ra thi hành
bản án và quyết định của Toà án
1. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án,
quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày nhận được bản án, quyết
định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái thẩm, Chánh án Toà án
đã xử sơ thẩm phải ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác cho Toà án khác cùng
cấp ra quyết định thi hành án.
2. Quyết định thi hành án phải ghi rõ họ tên người
ra quyết định; tên cơ quan có nhiệm vụ thi hành bản án hoặc quyết định; họ tên,
ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị kết án; bản án hoặc quyết định
mà người bị kết án phải chấp hành.
Trong trường hợp người bị kết án đang tại ngoại
thì quyết định thi hành án phạt tù phải ghi rõ trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày nhận được quyết định, người đó phải có mặt tại cơ quan Công an để thi hành
án.
3. Quyết định thi hành án, trích lục bản án hoặc
quyết định phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp nơi thi hành án, cơ quan
thi hành án và người bị kết án.
4. Trong trường hợp người
bị kết án phạt tù đang tại ngoại mà bỏ trốn, thì Chánh án Toà án đã ra quyết định
thi hành án yêu cầu Cơ quan công an cùng cấp ra quyết định truy nã.
Điều 257. Cơ quan, tổ chức có
nhiệm vụ thi hành bản án và quyết định của Toà án
1. Cơ quan Công an thi hành hình phạt trục xuất,
tù có thời hạn, tù chung thân và tham gia Hội đồng thi hành hình phạt tử hình
theo quy định tại Điều 259 của Bộ luật này.
2. Chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ
quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc có nhiệm vụ theo dõi,
giáo dục, giám sát việc cải tạo của những người được hưởng án treo hoặc bị phạt
cải tạo không giam giữ.
3. Việc thi hành hình phạt quản chế, cấm cư trú,
tước một số quyền công dân, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định do chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
thi hành án đảm nhiệm.
4. Cơ sở chuyên khoa y tế thi hành quyết định về
bắt buộc chữa bệnh.
5. Cơ quan thi hành án dân sự thi hành hình phạt
tiền, tịch thu tài sản và quyết định dân sự trong vụ án hình sự. Chính quyền
xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ giúp chấp hành viên
trong việc thi hành án. Nếu cần phải áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
thì cơ quan Công an và các cơ quan hữu quan khác có nhiệm vụ phối hợp.
6. Việc thi hành bản án và quyết định của Toà án
quân sự do các tổ chức trong Quân đội đảm nhiệm, trừ hình phạt trục xuất.
7. Các cơ quan thi hành án phải báo cho Chánh án
Toà án đã ra quyết định thi hành án về việc bản án hoặc quyết định đã được thi
hành; nếu chưa thi hành được thì phải nêu rõ lý do.
Chương XXVI
THI HÀNH HÌNH PHẠT TỬ
HÌNH
Điều 258. Thủ tục xem xét bản án
tử hình trước khi đưa ra thi hành
1. Sau khi bản án tử hình có hiệu lực pháp luật,
hồ sơ vụ án phải được gửi ngay lên Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và bản án
phải được gửi ngay lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày nhận được bản
án và hồ sơ vụ án, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao phải quyết định kháng nghị hoặc quyết định không kháng nghị
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án có hiệu
lực pháp luật, người bị kết án được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước.
2. Bản án tử hình được thi
hành, nếu Chánh án Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Trong trường hợp bản án tử hình bị kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm mà Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng
tái thẩm Toà án nhân dân tối cao quyết định không chấp nhận kháng nghị và giữ
nguyên bản án tử hình, thì Toà án nhân dân tối cao phải thông báo ngay cho người
bị kết án biết để họ làm đơn xin ân giảm án tử hình.
Trong trường hợp người bị kết án xin ân giảm
hình phạt tử hình thì bản án tử hình được thi hành sau khi Chủ tịch nước bác
đơn xin ân giảm.
Điều 259. Thi hành hình phạt tử
hình
1. Chánh án Tòa án đã xử sơ thẩm ra quyết định
thi hành án và thành lập Hội đồng thi hành hình phạt tử hình gồm đại diện Tòa án,
Viện kiểm sát và Công an. Hội đồng thi hành án phải kiểm tra căn cước của người
bị kết án trước khi thi hành án.
Trong trường hợp người bị kết án là phụ nữ thì
trước khi ra quyết định thi hành án, Chánh án Toà án đã xét xử sơ thẩm phải tổ
chức kiểm tra các điều kiện không áp dụng hình phạt tử hình được quy định tại Điều 35 của Bộ luật hình sự. Nếu có căn cứ người bị kết án có điều
kiện quy định tại Điều 35 của Bộ luật hình sự thì Chánh án
Toà án đã xét xử sơ thẩm không ra quyết định thi hành án và báo cáo Chánh án
Toà án nhân dân tối cao để xem xét chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân
cho người bị kết án.
Trước khi thi hành án đối với người bị kết án là
phụ nữ thì Hội đồng thi hành án ngoài việc kiểm tra căn cước, phải kiểm tra các
tài liệu liên quan đến điều kiện không thi hành án tử hình được quy định tại Điều 35 của Bộ luật hình sự.
Trong trường hợp Hội đồng thi hành án phát hiện
người bị kết án có điều kiện quy định tại Điều 35 của Bộ luật
hình sự thì Hội đồng thi hành án hoãn thi hành án và báo cáo Chánh án Toà
án đã ra quyết định thi hành án để báo cáo Chánh án Toà án nhân dân tối cao xem
xét chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân cho người bị kết án.
2. Trước khi thi hành án phải giao cho người bị
kết án đọc quyết định thi hành án, quyết định không kháng nghị của Chánh án Tòa
án nhân dân tối cao và quyết định không kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao; nếu người bị kết án đã có đơn xin ân giảm án tử hình thì
giao cho họ đọc bản sao quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm.
3. Hình phạt tử hình được thi hành bằng xử bắn.
4. Việc thi hành hình phạt tử hình phải được lập
biên bản ghi rõ việc đã giao các quyết định cho người bị kết án xem, những lời
nói của họ và những thư từ, đồ vật mà họ gửi lại cho người thân thích.
5. Trong trường hợp có
tình tiết đặc biệt, Hội đồng thi hành án hoãn thi hành và báo cáo Chánh án Toà
án đã ra quyết định thi hành án để báo cáo Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Chương XXVII
THI HÀNH HÌNH PHẠT TÙ
VÀ CÁC HÌNH PHẠT KHÁC
Điều 260. Thi hành hình phạt tù
1. Trong trường hợp người bị kết án đang bị tạm
giam thì theo yêu cầu của người thân thích người bị kết án, cơ quan Công an phải
cho phép người bị kết án gặp người thân thích trước khi thi hành án.
Ban giám thị trại giam phải thông báo cho gia
đình người bị kết án biết nơi người đó chấp hành hình phạt.
2. Trong trường hợp người bị kết án đang tại ngoại,
nếu quá thời hạn mà không có mặt tại cơ quan Công an để chấp hành án thì người
bị kết án sẽ bị áp giải.
3. Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án
phải theo dõi việc thi hành án. Cơ quan Công an phải thông báo bằng văn bản cho
Tòa án về việc bắt người bị kết án để thi hành án hoặc lý do chưa bắt được và
biện pháp cần áp dụng để bảo đảm việc thi hành án.
4. Trong trường hợp người đang chấp hành hình phạt
tù trốn khỏi trại giam thì cơ quan Công an ra quyết định truy nã.
Điều 261. Hoãn chấp hành hình phạt
tù
1. Đối với người bị xử phạt tù đang được tại ngoại,
Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án có thể tự mình hoặc theo đề nghị của
Viện kiểm sát, cơ quan Công an cùng cấp hoặc người bị kết án cho hoãn chấp hành
hình phạt tù trong trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 61
của Bộ luật hình sự.
2. Chậm nhất là bảy ngày trước khi hết thời hạn
hoãn chấp hành hình phạt tù, Chánh án Toà án đã cho hoãn chấp hành hình phạt tù
phải ra quyết định thi hành án và phải gửi ngay quyết định thi hành án cùng bản
án, quyết định phạt tù đã có hiệu lực pháp luật cho cơ quan Công an cùng cấp và
người bị kết án trước khi hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù.
Nếu quá thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết thời hạn
hoãn chấp hành hình phạt tù, người bị kết án không có mặt tại cơ quan Công an để
đi chấp hành hình phạt tù mà không có lý do chính đáng, thì cơ quan Công an phải
áp giải người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù.
Điều 262. Tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù
1. Theo đề nghị của Viện kiểm sát hoặc của Ban
giám thị trại giam nơi người bị kết án đang chấp hành hình phạt tù:
a) Chánh án Tòa án cấp tỉnh nơi người đang chấp
hành hình phạt tù có thể cho người đó được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
trong trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 61 và Điều 62
của Bộ luật hình sự;
b) Chánh án Tòa án đã ra quyết định thi hành án
có thể cho người đang chấp hành hình phạt tù được tạm đình chỉ chấp hành hình
phạt tù trong các trường hợp quy định tại các điểm b, c và d khoản
1 Điều 61 và Điều 62 của Bộ luật hình sự.
Chậm nhất là bảy ngày trước khi hết thời hạn tạm
đình chỉ chấp hành hình phạt tù, Chánh án Toà án đã cho tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù phải ra quyết định thi hành án đối với phần hình phạt còn lại và
phải gửi ngay quyết định đó cho cơ quan Công an cùng cấp nơi Tòa án đã ra quyết
định tạm đình chỉ và người bị kết án.
Nếu quá thời hạn bảy ngày, kể từ ngày hết thời hạn
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, người bị kết án không có mặt tại cơ quan
Công an để đi chấp hành hình phạt tù mà không có lý do chính đáng, thì cơ quan
Công an phải áp giải người bị kết án đi chấp hành hình phạt tù.
2. Việc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù để
xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm phải do người đã kháng nghị hoặc
do Tòa án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm quyết định.
Điều 263. Quản lý người được
hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù
1. Người được hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành
hình phạt tù được giao cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức
nơi họ cư trú hoặc làm việc quản lý. Họ không được tự ý đi nơi khác, nếu không
được phép của chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức quản lý họ.
2. Nếu trong thời gian được hoãn hoặc tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt mà người bị kết án có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm
trọng hoặc có căn cứ cho rằng người đó bỏ trốn thì Chánh án Tòa án đã cho hoãn
hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù hủy bỏ quyết định đó và ra quyết định
thi hành án để bắt họ đi chấp hành hình phạt tù. Quyết định thi hành án được gửi
cho cơ quan Công an cùng cấp nơi Tòa án đã ra quyết định. Ngay sau khi nhận được
quyết định thi hành án, cơ quan Công an phải tổ chức bắt, áp giải người bị kết
án đi chấp hành hình phạt tù.
Điều 264. Thi hành hình phạt tù
cho hưởng án treo, hình phạt cải tạo không giam giữ
Người bị phạt tù được hưởng án treo và người bị
phạt cải tạo không giam giữ được giao cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc
cơ quan, tổ chức nơi họ cư trú hoặc làm việc để giám sát, giáo dục.
Điều 265. Thi hành hình phạt trục
xuất
Người bị phạt trục xuất phải rời khỏi lãnh thổ
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời hạn chậm nhất là mười lăm
ngày, kể từ ngày có quyết định thi hành án. Trong trường hợp người bị phạt trục
xuất phải chấp hành các hình phạt khác hoặc phải thực hiện các nghĩa vụ khác
thì thời hạn họ rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do
pháp luật quy định.
Điều 266. Thi hành hình phạt quản
chế hoặc cấm cư trú
Đối với người bị phạt quản chế thì sau khi chấp
hành xong hình phạt tù, người bị kết án được giao cho chính quyền xã, phường,
thị trấn nơi họ cư trú để thi hành hình phạt quản chế. Người bị phạt cấm cư trú
thì không được tạm trú, thường trú ở những địa phương bị cấm cư trú.
Điều 267. Thi hành hình phạt tiền
hoặc tịch thu tài sản
Quyết định đưa bản án phạt tiền hoặc tịch thu
tài sản ra thi hành phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, chấp hành viên,
người bị kết án và chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người bị kết án cư trú.
Việc tịch thu tài sản được tiến hành theo quy định
tại Điều 40 của Bộ luật hình sự.
Chương XXVIII
GIẢM THỜI HẠN HOẶC MIỄN
CHẤP HÀNH HÌNH PHẠT
Điều 268. Điều kiện để được giảm
thời hạn hoặc miễn chấp hành hình phạt
1. Người đang chấp hành hình phạt tù, cải tạo
không giam giữ, cấm cư trú hoặc quản chế có thể được giảm thời hạn chấp hành
hình phạt theo quy định tại các điều 57, 58, 59 và 76 của Bộ luật
hình sự; nếu họ chưa chấp hành hình phạt thì có thể được miễn chấp hành
toàn bộ hình phạt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 5 Điều
57 của Bộ luật hình sự.
Người đang được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt
tù có thể được miễn chấp hành hình phạt còn lại theo quy định tại khoản 4 Điều 57 của Bộ luật hình sự.
Người đã chấp hành được một phần hình phạt tiền
có thể được miễn chấp hành phần tiền phạt còn lại theo quy định tại khoản 2 Điều 58 và khoản 3 Điều 76 của Bộ luật hình sự.
2. Người bị phạt tù được
hưởng án treo có thể được rút ngắn thời gian thử thách theo quy định tại Điều 60 của Bộ luật hình sự.
Điều 269. Thủ tục giảm thời hạn
hoặc miễn chấp hành hình phạt
1. Tòa án có thẩm quyền quyết định giảm thời hạn
chấp hành hình phạt tù là Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu
nơi người bị kết án chấp hành hình phạt.
Tòa án có thẩm quyền quyết định miễn chấp hành
hình phạt tù là Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu nơi người
bị kết án cư trú hoặc làm việc.
Việc giảm thời hạn hoặc miễn chấp hành các hình
phạt khác hoặc giảm thời gian thử thách thuộc thẩm quyền quyết định của Tòa án
nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực nơi người bị kết án chấp hành hình
phạt hoặc chịu thử thách.
2. Hồ sơ đề nghị xét miễn chấp hành hình phạt cải
tạo không giam giữ, miễn chấp hành toàn bộ hoặc phần hình phạt tù còn lại, miễn
chấp hành phần tiền phạt còn lại phải có đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát
cùng cấp.
Hồ sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành hình
phạt tù phải có đề nghị của cơ quan thi hành hình phạt tù.
Hồ sơ đề nghị xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt
cải tạo không giam giữ phải có đề nghị của cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa
phương được giao nhiệm vụ trực tiếp giám sát, giáo dục.
Hồ sơ đề nghị xét giảm hoặc miễn chấp hành hình
phạt khác hoặc rút ngắn thời gian thử thách của án treo phải có đề nghị hoặc nhận
xét của cơ quan, tổ chức có nhiệm vụ thi hành án quy định tại Điều
257 của Bộ luật này.
3. Khi Tòa án xét giảm thời hạn hoặc miễn chấp
hành hình phạt, một thành viên của Tòa án trình bày vấn đề cần được xem xét, đại
diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến, Tòa án ra quyết định chấp nhận hoặc bác đề
nghị giảm thời hạn, miễn chấp hành hình phạt hoặc rút ngắn thời gian thử thách.
Chương XXIX
XÓA ÁN TÍCH
Điều 270. Đương nhiên xóa án
tích
Theo yêu cầu của người được đương nhiên xóa án
tích quy định tại Điều 64 của Bộ luật hình sự, Chánh án Tòa
án đã xử sơ thẩm vụ án cấp giấy chứng nhận là họ đã được xóa án tích.
Điều 271. Xóa án tích do Toà án
quyết định
1. Trong những trường hợp quy định tại Điều 65 và Điều 66 của Bộ luật hình sự, việc xóa án tích do
Toà án quyết định. Người bị kết án phải có đơn gửi Toà án đã xử sơ thẩm vụ án
kèm theo nhận xét của chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức
nơi họ cư trú hoặc làm việc.
2. Chánh án Toà án đã xử sơ thẩm chuyển tài liệu
về việc xin xoá án tích cho Viện kiểm sát cùng cấp để phát biểu ý kiến bằng văn
bản. Nếu xét thấy đủ điều kiện thì Chánh án ra quyết định xóa án tích; trong
trường hợp chưa đủ điều kiện thì quyết định bác đơn xin xóa án tích.
Phần Thứ sáu
XÉT LẠI BẢN ÁN VÀ QUYẾT
ĐỊNH ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT
Chương XXX
THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM
Điều 272. Tính chất của giám đốc
thẩm
Giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án.
Điều 273. Căn cứ để kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm
Bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, khi có một trong những căn
cứ sau đây:
1. Việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện
hoặc không đầy đủ;
2. Kết luận trong bản án hoặc quyết định không
phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án;
3. Có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử;
4. Có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng
Bộ luật hình sự.
Điều 274. Phát hiện bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm
Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công
dân có quyền phát hiện những vi phạm pháp luật trong các bản án và quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật và thông báo cho những người có quyền kháng nghị
quy định tại Điều 275 của Bộ luật này.
Trong trường hợp phát hiện thấy những vi phạm
pháp luật trong bản án hoặc quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật, Viện
kiểm sát, Tòa án phải thông báo cho người có quyền kháng nghị quy định tại Điều 275 của Bộ luật này.
Điều 275. Những người có quyền
kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
1. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản
án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
2. Chánh án Tòa án quân sự trung ương và Viện
trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc
thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp dưới.
3. Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Tòa án quân sự cấp quân khu và Viện
trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị theo thủ tục giám
đốc thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dưới.
Điều 276. Tạm đình chỉ thi hành
bản án hoặc quyết định bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
Những người đã kháng nghị bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật có quyền quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc
quyết định đó.
Quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án phải gửi
cho Toà án, Viện kiểm sát nơi đã xử sơ thẩm và cơ quan thi hành án có thẩm quyền.
Điều 277. Kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm
1. Kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phải
nêu rõ lý do và được gửi cho:
a) Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định bị kháng
nghị;
b) Tòa án sẽ xét xử giám đốc thẩm;
c) Người bị kết án và những người có quyền và lợi
ích liên quan đến việc kháng nghị.
2. Nếu không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, thì trước khi hết thời hạn kháng nghị quy định tại Điều 278 của Bộ luật này, người có quyền kháng nghị phải trả lời
cho người hoặc cơ quan, tổ chức đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng
nghị.
3. Trước khi bắt đầu phiên tòa giám đốc thẩm,
người đã kháng nghị có quyền bổ sung kháng nghị nếu chưa hết thời hạn kháng nghị
quy định tại Điều 278 của Bộ luật này hoặc rút kháng nghị.
Điều 278. Thời hạn kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm
1. Việc kháng nghị theo hướng không có lợi cho
người bị kết án chỉ được tiến hành trong thời hạn một năm, kể từ ngày bản án hoặc
quyết định có hiệu lực pháp luật.
2. Việc kháng nghị theo hướng có lợi cho người bị
kết án có thể được tiến hành bất cứ lúc nào, kể cả trường hợp người bị kết án
đã chết mà cần minh oan cho họ.
3. Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự
đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Điều 279. Thẩm quyền giám đốc thẩm
1. ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh
giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
nhân dân cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu giám đốc thẩm
những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực.
2. Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao giám đốc
thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân
cấp tỉnh. Tòa án quân sự trung ương giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu.
3. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án
quân sự trung ương, của Toà hình sự, các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao
bị kháng nghị.
4. Những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật về cùng một vụ án hình sự thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm của các cấp
khác nhau được quy định tại các khoản 1, 2 và 3 của Điều này thì cấp có thẩm
quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án.
Điều 280. Những người tham gia
phiên tòa giám đốc thẩm
Phiên tòa giám đốc thẩm phải có sự tham gia của
Viện kiểm sát cùng cấp.
Khi xét thấy cần thiết, Tòa án phải triệu tập
người bị kết án, người bào chữa và có thể triệu tập những người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm.
Điều 281. Thành phần Hội đồng
giám đốc thẩm
1. Hội đồng giám đốc thẩm Tòa hình sự Tòa án nhân
dân tối cao hoặc Tòa án quân sự trung ương gồm ba Thẩm phán. Nếu Uỷ ban Thẩm
phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu hoặc
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm thì phải có ít nhất
hai phần ba tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán hoặc Hội đồng Thẩm phán
tham gia xét xử.
Quyết định giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm phán hoặc
Hội đồng Thẩm phán phải được quá nửa tổng số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán hoặc
Hội đồng Thẩm phán tán thành.
2. Tại phiên tòa giám đốc thẩm của Uỷ ban Thẩm
phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Uỷ ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu, Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao khi biểu quyết về nội dung kháng nghị
thì phải biểu quyết theo trình tự những ý kiến đồng ý với kháng nghị, những ý
kiến không đồng ý với kháng nghị. Nếu không có loại ý kiến nào được quá nửa tổng
số thành viên của Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán biểu quyết tán thành,
thì phải hoãn phiên toà. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định
hoãn phiên tòa thì Uỷ ban Thẩm phán, Hội đồng Thẩm phán phải mở phiên tòa xét xử
lại vụ án với sự tham gia của toàn thể các thành viên.
Điều 282. Chuẩn bị phiên tòa và
thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm
1. Chánh án Tòa án phân công một Thẩm phán làm bản
thuyết trình về vụ án tại phiên tòa. Bản thuyết trình tóm tắt nội dung vụ án và
các bản án, quyết định của các cấp Tòa án, nội dung của kháng nghị. Bản thuyết
trình phải được gửi trước cho các thành viên Hội đồng chậm nhất là bảy ngày trước
ngày mở phiên tòa giám đốc thẩm.
2. Tại phiên tòa, một thành viên của Hội đồng
giám đốc thẩm trình bày bản thuyết trình về vụ án. Các thành viên của Hội đồng
giám đốc thẩm phát biểu ý kiến và đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm của
Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
Nếu đã triệu tập người bị kết án, người bào chữa,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị thì những người này
được trình bày ý kiến trước khi đại diện Viện kiểm sát phát biểu. Trong trường
hợp họ vắng mặt thì Hội đồng giám đốc thẩm vẫn có thể tiến hành xét xử.
Điều 283. Thời hạn giám đốc thẩm
Phiên tòa giám đốc thẩm phải được tiến hành
trong thời hạn bốn tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị.
Điều 284. Phạm vi giám đốc thẩm
Hội đồng giám đốc thẩm phải xem xét toàn bộ vụ
án mà không chỉ hạn chế trong nội dung của kháng nghị.
Điều 285. Thẩm quyền của Hội đồng
giám đốc thẩm
Hội đồng giám đốc thẩm có quyền ra quyết định :
1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản
án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
2. Hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực
pháp luật và đình chỉ vụ án ;
3. Hủy bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại.
Điều 286. Hủy bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án
Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án, nếu có một trong những căn cứ quy định
tại Điều 107 của Bộ luật này.
Điều 287. Hủy bản án hoặc quyết
định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc xét xử lại
Hội đồng giám đốc thẩm hủy bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử lại, nếu có
một trong những căn cứ quy định tại Điều 273 của Bộ luật này.
Nếu cần xét xử lại thì tùy trường hợp, Hội đồng giám đốc thẩm có thể quyết định
xét xử lại từ cấp sơ thẩm hoặc cấp phúc thẩm.
Trong trường hợp hủy bản án hoặc quyết định bị
kháng nghị để điều tra lại hoặc để xét xử lại và xét thấy việc tiếp tục tạm
giam bị cáo là cần thiết, thì Hội đồng giám đốc thẩm ra lệnh tạm giam cho đến
khi Viện kiểm sát hoặc Tòa án thụ lý lại vụ án.
Điều 288. Hiệu lực của quyết định
giám đốc thẩm và việc giao quyết định giám đốc thẩm
1. Quyết định của Hội đồng giám đốc thẩm có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
2. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra quyết
định, Hội đồng giám đốc thẩm phải gửi quyết định giám đốc thẩm cho người bị kết
án, người kháng nghị, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an nơi đã xử sơ thẩm,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị hoặc người đại diện
hợp pháp của họ, Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền; thông báo bằng văn bản
cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án
cư trú hoặc làm việc.
Điều 289. Điều tra lại, xét xử lại
vụ án sau khi Hội đồng giám đốc thẩm huỷ bản án hoặc quyết định
Nếu Hội đồng giám đốc thẩm quyết định hủy bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại, thì trong thời hạn mười
lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Viện kiểm
sát cùng cấp để điều tra lại theo thủ tục chung.
Nếu Hội đồng giám đốc thẩm quyết định hủy bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử lại vụ án ở cấp sơ thẩm hoặc
ở cấp phúc thẩm thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ
sơ vụ án phải được chuyển cho Tòa án có thẩm quyền để xét xử lại theo thủ tục
chung.
Chương XXXI
THỦ TỤC TÁI THẨM
Điều 290. Tính chất của tái thẩm
Thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới
được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định
mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó.
Điều 291. Những căn cứ để kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm
Những tình tiết được dùng làm căn cứ để kháng nghị
tái thẩm là:
1. Lời khai của người làm chứng, kết luận giám định,
lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan trọng được phát hiện là không
đúng sự thật;
2. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội
thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai;
3. Vật chứng, biên bản điều tra, biên bản các hoạt
động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả mạo hoặc không
đúng sự thật;
4. Những tình tiết khác làm cho việc giải quyết
vụ án không đúng sự thật.
Điều 292. Thông báo và xác minh
những tình tiết mới được phát hiện
1. Người bị kết án, cơ quan, tổ chức và mọi công
dân có quyền phát hiện những tình tiết mới của vụ án và báo cho Viện kiểm sát
hoặc Tòa án. Viện trưởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm ra quyết
định xác minh những tình tiết đó.
2. Nếu có một trong những căn cứ quy định tại Điều 291 của Bộ luật này thì Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết
định kháng nghị tái thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án có thẩm quyền. Nếu
không có căn cứ thì Viện trưởng Viện kiểm sát trả lời cho cơ quan, tổ chức hoặc
người đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.
Điều 293. Những người có quyền
kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
1. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có
quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao.
2. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự trung ương
có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp dưới.
3. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện. Viện trưởng Viện kiểm
sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những
bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực.
4. Bản kháng nghị của những người quy định tại Điều
này phải được gửi cho người bị kết án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến việc kháng nghị.
Điều 294. Tạm đình chỉ thi hành
bản án hoặc quyết định đã bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
Những người đã kháng nghị theo thủ tục tái thẩm
có quyền tạm đình chỉ thi hành bản án hoặc quyết định bị kháng nghị.
Điều 295. Thời hạn kháng nghị
theo thủ tục tái thẩm
1. Tái thẩm theo hướng không có lợi cho người bị
kết án phải tiến hành trong thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại
Điều 23 của Bộ luật hình sự và thời hạn kháng nghị không được
quá một năm, kể từ ngày Viện kiểm sát nhận được tin báo về tình tiết mới được
phát hiện.
2. Tái thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết
án thì không hạn chế về thời gian và được tiến hành trong cả trường hợp người bị
kết án đã chết mà cần minh oan cho họ.
3. Việc kháng nghị về dân sự trong vụ án hình sự
đối với nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan đến vụ án được tiến hành theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Điều 296. Thẩm quyền tái thẩm
1. ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh tái
thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân
cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu tái thẩm bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực.
2. Tòa hình sự Tòa án nhân dân tối cao tái thẩm
những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Tòa án quân sự trung ương tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án quân sự cấp quân khu.
3. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự
trung ương, Toà hình sự, các Toà phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao.
Điều 297. Việc tiến hành tái thẩm
Những quy định tại các điều 280,
281, 282 và 283 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với việc tái thẩm.
Điều 298. Thẩm quyền của Hội đồng
tái thẩm
Hội đồng tái thẩm có quyền ra quyết định:
1. Không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản
án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật;
2. Hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều
tra lại hoặc xét xử lại;
3. Huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và
đình chỉ vụ án.
Điều 299. Hiệu lực của quyết định
tái thẩm và việc giao quyết định tái thẩm
1. Quyết định của Hội đồng tái thẩm có hiệu lực
pháp luật kể từ ngày ra quyết định.
2. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày ra quyết
định, Hội đồng tái thẩm phải gửi quyết định tái thẩm cho người bị kết án, người
kháng nghị, Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan Công an nơi đã xử sơ thẩm, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp
của họ, Cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền; thông báo bằng văn bản cho
chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư
trú hoặc làm việc.
Điều 300. Điều tra lại hoặc xét
xử lại vụ án
1. Nếu Hội đồng tái thẩm quyết định hủy bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại thì trong thời hạn mười
lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Viện kiểm
sát có thẩm quyền để điều tra lại theo thủ tục chung.
2. Nếu Hội đồng tái thẩm quyết định hủy bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại vụ án thì trong
thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định, hồ sơ vụ án phải được chuyển
cho Tòa án có thẩm quyền để xét xử lại theo thủ tục chung.
Phần thứ bảy
THỦ TỤC ĐẶC BIỆT
Chương XXXII
THỦ TỤC TỐ TỤNG ĐỐI VỚI
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Điều 301. Phạm vi áp dụng
Thủ tục tố tụng đối với người bị bắt, người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên được áp dụng theo quy định của
Chương này, đồng thời theo những quy định khác của Bộ luật này không trái với
những quy định của Chương này.
Điều 302. Điều tra, truy tố và
xét xử
1. Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tiến
hành tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội phải là người có những hiểu
biết cần thiết về tâm lý học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh
phòng, chống tội phạm của người chưa thành niên.
2. Khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử cần
phải xác định rõ:
a) Tuổi, trình độ phát triển về thể chất và tinh
thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên;
b) Điều kiện sinh sống và giáo dục;
c) Có hay không có người thành niên xúi giục;
d) Nguyên nhân và điều kiện phạm tội.
Điều 303. Bắt, tạm giữ, tạm giam
1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị
bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều
80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ
trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt
nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị
bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều
80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ
trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
3. Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người
chưa thành niên phải thông báo cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết
ngay sau khi bắt, tạm giữ, tạm giam.
Điều 304. Việc giám sát đối với
người chưa thành niên phạm tội
1. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể
ra quyết định giao người chưa thành niên phạm tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu
của họ giám sát để bảo đảm sự có mặt của người chưa thành niên phạm tội khi có
giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng.
2. Người được giao nhiệm vụ giám sát có nghĩa vụ
giám sát chặt chẽ người chưa thành niên, theo dõi tư cách, đạo đức và giáo dục
người đó.
Điều 305. Bào chữa
1. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo là người chưa thành niên có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự
mình bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
2. Trong trường hợp bị can, bị cáo là người chưa
thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa
thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công
Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của
tổ chức mình.
Điều 306. Việc tham gia tố tụng
của gia đình, nhà trường, tổ chức
1. Đại diện của gia đình người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo; thầy giáo, cô giáo, đại diện của nhà trường, Đoàn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, tổ chức khác nơi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo học tập, lao
động và sinh sống có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng theo quyết định của Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án.
2. Trong trường hợp người
bị tạm giữ, bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi hoặc là người chưa
thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc trong những trường hợp
cần thiết khác, thì việc lấy lời khai, hỏi cung những người này phải có mặt đại
diện của gia đình, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng mặt mà không có
lý do chính đáng. Đại diện gia đình có thể hỏi người bị tạm giữ, bị can nếu được
Điều tra viên đồng ý; được đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu, khiếu nại; đọc hồ
sơ vụ án khi kết thúc điều tra.
3. Tại phiên toà xét xử bị cáo là người chưa
thành niên phải có mặt đại diện của gia đình bị cáo, trừ trường hợp đại diện
gia đình cố ý vắng mặt mà không có lý do chính đáng, đại diện của nhà trường, tổ
chức.
Đại diện của gia đình bị cáo, đại diện của nhà
trường, tổ chức tham gia phiên toà có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và
đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; tham gia tranh luận; khiếu nại các
hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và các quyết định
của Toà án.
Điều 307. Xét xử
1. Thành phần Hội đồng xét xử phải có một Hội thẩm
là giáo viên hoặc là cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Trong trường hợp cần thiết, Tòa án có thể quyết
định xét xử kín.
2. Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải quyết
định hình phạt đối với bị cáo thì Tòa án áp dụng một trong những biện pháp tư
pháp quy định tại Điều 70 của Bộ luật hình sự.
Điều 308. Chấp hành hình phạt tù
1. Người chưa thành niên phạm tội chấp hành hình
phạt tù theo chế độ giam giữ riêng do pháp luật quy định.
Không được giam giữ chung người chưa thành niên
với người thành niên.
2. Người chưa thành niên bị kết án phải được học
nghề hoặc học văn hóa trong thời gian chấp hành hình phạt tù.
3. Nếu người chưa thành niên đang chấp hành hình
phạt tù đã đủ mười tám tuổi thì phải chuyển người đó sang chế độ giam giữ người
đã thành niên.
4. Đối với người chưa thành niên đã chấp hành
xong hình phạt tù, Ban giám thị trại giam phải phối hợp với chính quyền và tổ
chức xã hội ở xã, phường, thị trấn để giúp người đó trở về sống bình thường
trong xã hội.
Điều 309. Chấm dứt việc chấp
hành biện pháp tư pháp, giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt
Người chưa thành niên bị kết án có thể được chấm
dứt việc chấp hành biện pháp tư pháp, giảm hoặc miễn chấp hành hình phạt khi có
đủ điều kiện quy định tại Điều 70 hoặc Điều 76 của Bộ luật hình
sự.
Điều 310. Xóa án tích
Việc xóa án tích đối với người chưa thành niên
phạm tội khi có đủ điều kiện quy định tại Điều 77 của Bộ luật
hình sự được tiến hành theo thủ tục chung.
Chương XXXIII
THỦ TỤC ÁP DỤNG BIỆN
PHÁP BẮT BUỘC CHỮA BỆNH
Điều 311. Điều kiện và thẩm quyền
áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
1. Khi có căn cứ cho rằng người thực hiện hành
vi nguy hiểm cho xã hội không có năng lực trách nhiệm hình sự theo quy định tại
Điều 13 của Bộ luật hình sự thì tùy theo giai đoạn tố tụng,
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án phải trưng cầu giám định pháp y.
2. Căn cứ vào kết luận của
Hội đồng giám định pháp y, Viện kiểm sát quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc
chữa bệnh trong giai đoạn điều tra, truy tố; Tòa án quyết định áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh trong giai đoạn xét xử và thi hành án.
Điều 312. Điều tra
1. Đối với vụ án có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 311 của Bộ luật này, Cơ quan điều tra phải làm
sáng tỏ:
a) Hành vi nguy hiểm cho xã hội đã xảy ra;
b) Tình trạng tâm thần và bệnh tâm thần của người
có hành vi nguy hiểm cho xã hội;
c) Người có hành vi nguy hiểm cho xã hội có mất
khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình hay không.
2. Khi tiến hành tố tụng, Cơ quan điều tra phải
bảo đảm có người bào chữa tham gia tố tụng từ khi xác định là người có hành vi
nguy hiểm cho xã hội mắc bệnh tâm thần. Đại diện hợp pháp của người đó có thể
tham gia tố tụng trong trường hợp cần thiết.
Điều 313. Quyết định của Viện kiểm
sát sau khi kết thúc điều tra
Sau khi nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận điều
tra, Viện kiểm sát có thể ra một trong những quyết định sau đây:
1. Tạm đình chỉ hoặc đình chỉ vụ án;
2. Đình chỉ vụ án và quyết định áp dụng biện
pháp bắt buộc chữa bệnh;
3. Truy tố bị can trước Tòa án.
Điều 314. Xét xử
1. Tòa án có thể ra một trong những quyết định
sau đây:
a) Miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt
và áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh;
b) Đình chỉ vụ án và áp dụng biện pháp bắt buộc
chữa bệnh;
c) Tạm đình chỉ vụ án và áp dụng biện pháp bắt
buộc chữa bệnh;
d) Trả hồ sơ để điều tra lại hoặc điều tra bổ
sung.
2. Ngoài quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc
chữa bệnh, Tòa án có thể giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại hoặc vấn đề
khác liên quan đến vụ án.
Điều 315. Áp dụng biện pháp bắt
buộc chữa bệnh đối với người chấp hành hình phạt tù
Trong trường hợp có căn cứ để cho rằng người
đang chấp hành hình phạt tù mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả
năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì theo đề nghị của
cơ quan thi hành án phạt tù, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh án
Toà án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án chấp hành hình phạt phải trưng
cầu giám định pháp y.
Căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám định pháp
y, Chánh án Toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc Chánh án Toà án quân sự cấp quân khu
nơi người bị kết án chấp hành hình phạt có thể quyết định đưa họ vào một cơ sở
chuyên khoa y tế để bắt buộc chữa bệnh. Sau khi khỏi bệnh, người đó phải tiếp tục
chấp hành hình phạt, nếu không có lý do để miễn chấp hành hình phạt.
Điều 316. Khiếu nại, kháng nghị,
kháng cáo
1. Khi quyết định của Viện kiểm sát về việc áp dụng
biện pháp bắt buộc chữa bệnh bị khiếu nại thì vụ án phải được đưa ra xét xử sơ
thẩm ở Tòa án cùng cấp.
2. Việc kháng nghị hoặc
kháng cáo đối với quyết định của Tòa án về việc áp dụng biện pháp bắt buộc chữa
bệnh được tiến hành như đối với bản án sơ thẩm.
3. Quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh
của Tòa án vẫn có hiệu lực thi hành mặc dù có khiếu nại, kháng nghị, kháng cáo.
Điều 317. Thực hiện, đình chỉ thực
hiện biện pháp bắt buộc chữa bệnh
1. Biện pháp bắt buộc chữa bệnh được thực hiện ở
một cơ sở chuyên khoa y tế do Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ định.
2. Khi có báo cáo của cơ sở
chữa bệnh, đơn yêu cầu của người thân thích người bị bắt buộc chữa bệnh hoặc yêu
cầu của Viện kiểm sát thì trên cơ sở kết luận của Hội đồng giám định y khoa, Viện
kiểm sát hoặc Tòa án đã ra quyết định áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh có
thể ra quyết định đình chỉ thực hiện biện pháp bắt buộc chữa bệnh, đồng thời có
thể quyết định phục hồi tố tụng đã bị tạm đình chỉ.
Chương XXXIV
THỦ TỤC RÚT GỌN
Điều 318. Phạm vi áp dụng thủ tục
rút gọn
Thủ tục rút gọn đối với việc điều tra, truy tố
và xét xử sơ thẩm được áp dụng theo quy định của Chương này, đồng thời theo những
quy định khác của Bộ luật này không trái với những quy định của Chương này.
Điều 319. Điều kiện áp dụng thủ
tục rút gọn
Thủ tục rút gọn chỉ được áp dụng khi có đủ các điều
kiện sau đây:
1. Người thực hiện hành vi phạm tội bị bắt quả
tang;
2. Sự việc phạm tội đơn giản, chứng cứ rõ ràng;
3. Tội phạm đã thực hiện là tội phạm ít nghiêm
trọng;
4. Người phạm tội có căn cước, lai lịch rõ ràng.
Điều 320. Quyết định áp dụng thủ
tục rút gọn
1. Sau khi khởi tố vụ án, theo đề nghị của Cơ
quan điều tra hoặc xét thấy vụ án có đủ các điều kiện quy định tại Điều 319 của Bộ luật này, Viện kiểm sát có thể ra quyết định
áp dụng thủ tục rút gọn.
2. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn phải được
gửi cho Cơ quan điều tra và bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ trong thời
hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định áp dụng thủ tục rút gọn.
3. Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn có thể bị
khiếu nại. Bị can hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền khiếu nại quyết
định áp dụng thủ tục rút gọn; thời hiệu khiếu nại là ba ngày, kể từ ngày nhận
được quyết định. Khiếu nại được gửi đến Viện kiểm sát đã ra quyết định áp dụng
thủ tục rút gọn và phải được giải quyết trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại.
Điều 321. Điều tra
1. Thời hạn điều tra theo thủ tục rút gọn là mười
hai ngày, kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
2. Khi kết thúc điều tra, Cơ quan điều tra không
phải làm bản kết luận điều tra mà ra quyết định đề nghị truy tố và gửi hồ sơ vụ
án cho Viện kiểm sát.
Điều 322. Tạm giữ, tạm giam để điều
tra, truy tố
1. Căn cứ, thẩm quyền và thủ tục tạm giữ, tạm
giam được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.
2. Thời hạn tạm giữ không được quá ba ngày, kể từ
ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
3. Thời hạn tạm giam để điều tra, truy tố không
được quá mười sáu ngày.
Điều 323. Quyết định việc truy tố
1. Trong thời hạn bốn ngày, kể từ ngày nhận được
hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải ra một trong những quyết định sau đây:
a) Truy tố bị can trước Tòa án bằng quyết định
truy tố;
b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Tạm đình chỉ vụ án;
d) Đình chỉ vụ án.
2. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ
sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều này,
thì Viện kiểm sát phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn
và vụ án được giải quyết theo thủ tục chung.
Điều 324. Xét xử
1. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được
hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa phải ra một trong các
quyết định sau đây:
a) Đưa vụ án ra xét xử;
b) Trả hồ sơ để điều tra bổ sung;
c) Tạm đình chỉ vụ án;
d) Đình chỉ vụ án.
2. Trong trường hợp ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử quy định tại điểm a khoản 1 Điều này thì trong thời hạn bảy ngày, kể từ
ngày ra quyết định, Toà án phải mở phiên toà xét xử vụ án. Việc xét xử sơ thẩm
được tiến hành theo thủ tục chung.
3. Trong trường hợp trả hồ sơ để điều tra bổ
sung hoặc tạm đình chỉ vụ án quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 1 Điều này
thì Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát và vụ án được giải quyết theo thủ tục
chung.
4. Trong trường hợp cần thiết, Tòa án cấp sơ thẩm
quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc xét xử. Thời hạn tạm giam không được
quá mười bốn ngày.
5. Việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm
đối với vụ án đã xét xử sơ thẩm theo thủ tục rút gọn được tiến hành theo thủ tục
chung.
Chương XXXV
KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Điều 325. Người có quyền khiếu nại
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khiếu nại quyết
định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng khi có
căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi
ích hợp pháp của mình.
Việc kháng cáo đối với bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có hiệu lực pháp luật, khiếu nại đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật thì không giải quyết theo quy định tại Chương này mà được giải quyết
theo quy định tại các chương XXIII, XXIV, XXX và XXXI của Bộ luật này.
Điều 326. Quyền và nghĩa vụ của
người khiếu nại
1. Người khiếu nại có quyền:
a) Tự mình khiếu nại hoặc thông qua người đại diện
hợp pháp để khiếu nại;
b) Khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của quá
trình giải quyết vụ án hình sự;
c) Rút khiếu nại trong bất kỳ giai đoạn nào của
quá trình giải quyết khiếu nại;
d) Được nhận văn bản trả lời về việc giải quyết
khiếu nại;
đ) Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp đã bị
xâm phạm, được bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
2. Người khiếu nại có nghĩa vụ:
a) Trình bày trung thực sự việc, cung cấp thông
tin, tài liệu cho người giải quyết khiếu nại; chịu trách nhiệm trước pháp luật
về nội dung trình bày và việc cung cấp các thông tin, tài liệu đó;
b) Chấp hành kết quả giải quyết khiếu nại.
Điều 327. Quyền và nghĩa vụ của
người bị khiếu nại
1. Người bị khiếu nại có quyền:
a) Đưa ra bằng chứng về tính hợp pháp của quyết
định, hành vi tố tụng bị khiếu nại;
b) Được nhận văn bản giải quyết khiếu nại về quyết
định, hành vi tố tụng của mình.
2. Người bị khiếu nại có nghĩa vụ:
a) Giải trình về quyết định, hành vi tố tụng bị
khiếu nại, cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền yêu cầu;
b) Chấp hành kết quả giải quyết khiếu nại;
c) Bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do
quyết định, hành vi tố tụng trái pháp luật của mình gây ra theo quy định của
pháp luật.
Điều 328. Thời hiệu khiếu nại
Thời hiệu khiếu nại là mười lăm ngày, kể từ ngày
nhận hoặc biết được quyết định, hành vi tố tụng mà người khiếu nại cho rằng có
vi phạm pháp luật.
Trong trường hợp vì ốm đau, thiên tai, địch hoạ,
đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người
khiếu nại không thực hiện được quyền khiếu nại theo đúng thời hiệu, thì thời
gian có trở ngại đó không tính vào thời hiệu khiếu nại.
Điều 329. Thẩm quyền và thời hạn
giải quyết khiếu nại đối với Điều tra viên, Phó Thủ trưởng và Thủ trưởng Cơ
quan điều tra
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Điều
tra viên, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra do Thủ trưởng Cơ quan điều tra xem
xét, giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu
không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến
Viện kiểm sát cùng cấp. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại,
Viện kiểm sát cùng cấp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cùng cấp có thẩm
quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Thủ
trưởng Cơ quan điều tra và các quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra đã được
Viện kiểm sát phê chuẩn do Viện kiểm sát cùng cấp giải quyết trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết
thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm
quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 330. Thẩm quyền và thời hạn
giải quyết khiếu nại đối với Kiểm sát viên, Phó Viện trưởng và Viện trưởng Viện
kiểm sát
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát, Kiểm sát viên do Viện trưởng Viện kiểm sát giải quyết
trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết
quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại,
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Viện
trưởng Viện kiểm sát do Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp giải quyết trong thời
hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 331. Thẩm quyền và thời hạn
giải quyết khiếu nại đối với Thẩm phán, Phó Chánh án và Chánh án Toà án
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Thẩm
phán, Phó Chánh án trước khi mở phiên toà do Chánh án Toà án giải quyết trong
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả
giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Toà án cấp trên trực tiếp.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Toà án cấp trên
trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Toà án cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải
quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của Chánh
án Toà án trước khi mở phiên tòa do Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết trong
thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Toà án cấp trên trực tiếp
có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 332. Thẩm quyền và thời hạn
giải quyết khiếu nại đối với người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều
tra
Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của những
người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều tra do Viện kiểm sát có thẩm
quyền truy tố giải quyết trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Nếu không đồng ý với kết quả giải quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại
đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày
nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết.
Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối cùng.
Khiếu nại quyết định tố tụng đã được Viện kiểm
sát phê chuẩn do Viện kiểm sát đã phê chuẩn quyết định đó giải quyết trong thời
hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải
quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát cấp
trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm
quyền giải quyết cuối cùng.
Điều 333. Thời hạn giải quyết
khiếu nại liên quan đến việc áp dụng biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam
Khiếu nại liên quan đến việc áp dụng biện pháp bắt,
tạm giữ, tạm giam phải được Viện kiểm sát xem xét, giải quyết ngay. Trong trường
hợp cần phải có thời gian để xác minh thêm thì thời hạn giải quyết không được
quá ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Nếu không đồng ý với kết quả giải
quyết thì người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Viện kiểm sát phải xem
xét, giải quyết. Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết cuối
cùng.
Điều 334. Người có quyền tố cáo
Công dân có quyền tố cáo với cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền về hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng nào gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
Điều 335. Quyền và nghĩa vụ của
người tố cáo
1. Người tố cáo có quyền:
a) Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, cá
nhân có thẩm quyền;
b) Yêu cầu giữ bí mật họ tên, địa chỉ, bút tích
của mình;
c) Yêu cầu được thông báo kết quả giải quyết tố
cáo;
d) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
bảo vệ khi bị đe doạ, trù dập, trả thù.
2. Người tố cáo có nghĩa vụ:
a) Trình bày trung thực về nội dung tố cáo;
b) Nêu rõ họ tên, địa chỉ của mình;
c) Chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc tố
cáo sai sự thật.
Điều 336. Quyền và nghĩa vụ của
người bị tố cáo
1. Người bị tố cáo có quyền:
a) Được thông báo về nội dung tố cáo;
b) Đưa ra bằng chứng để chứng minh nội dung tố
cáo là không đúng sự thật;
c) Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm, được phục hồi danh dự, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo không
đúng gây ra;
d) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
xử lý người tố cáo sai sự thật.
2. Người bị tố cáo có nghĩa vụ:
a) Giải trình về hành vi bị tố cáo; cung cấp
thông tin, tài liệu liên quan khi cơ quan, cá nhân có thẩm quyền yêu cầu;
b) Chấp hành kết quả xử lý tố cáo của cơ quan,
cá nhân có thẩm quyền;
c) Bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả do
hành vi trái pháp luật của mình gây ra.
Điều 337. Thẩm quyền và thời hạn
giải quyết tố cáo
1. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật của người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nào
thì người đứng đầu cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết.
Trong trường hợp người bị tố cáo là Thủ trưởng
Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án Toà án thì Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát, Toà án cấp trên trực tiếp có trách nhiệm giải quyết. Tố cáo
hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền tiến hành một số hoạt động điều
tra do Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố xem xét, giải quyết.
Thời hạn giải quyết tố cáo không quá sáu mươi
ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết tố
cáo có thể dài hơn, nhưng không quá chín mươi ngày.
2. Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu
tội phạm thì được giải quyết theo quy định tại Điều 103 của Bộ
luật này.
3. Tố cáo liên quan đến hành vi bắt, tạm giữ, tạm
giam phải được Viện kiểm sát xem xét, giải quyết ngay. Trong trường hợp phải
xác minh thêm thì thời hạn không quá ba ngày.
Điều 338. Trách nhiệm của người
có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo
Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm
vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết kịp thời, đúng pháp
luật khiếu nại, tố cáo và thông báo bằng văn bản kết quả giải quyết cho người
đã khiếu nại, tố cáo biết; xử lý nghiêm minh người vi phạm; áp dụng biện pháp cần
thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra; bảo đảm kết quả giải quyết được
thi hành nghiêm chỉnh và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc giải quyết
của mình.
Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo
mà không giải quyết, thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết, giải quyết trái
pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị
truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định
của pháp luật.
Điều 339. Nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình
sự
1. Viện kiểm sát yêu cầu Cơ quan điều tra, Tòa
án cùng cấp và cấp dưới, Bộ đội biên phòng, Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh
sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra:
a) Ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo theo
quy định tại Chương này;
b) Kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
cấp mình và cấp dưới; thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát;
c) Cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Viện kiểm sát.
2. Viện kiểm sát trực tiếp kiểm sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo tại Cơ quan điều tra, Tòa án, Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công an nhân
dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Phần thứ tám
HỢP TÁC QUỐC TẾ
Chương XXXVI
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ
HỢP TÁC QUỐC TẾ TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Điều 340. Nguyên tắc hợp tác quốc
tế trong hoạt động tố tụng hình sự
Hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự
giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam với các cơ quan có thẩm quyền tương ứng của nước ngoài được thực
hiện trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi, phù hợp
với Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và những nguyên tắc
cơ bản của pháp luật quốc tế.
Hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự
được tiến hành phù hợp với các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong trường hợp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam chưa ký kết hoặc chưa gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan thì
việc hợp tác quốc tế trong hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện trên nguyên
tắc có đi có lại nhưng không trái pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế.
Điều 341. Thực hiện tương trợ tư
pháp
Khi thực hiện tương trợ tư pháp, cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam áp dụng những quy định của điều ước quốc tế có
liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và
quy định của Bộ luật này.
Điều 342. Từ chối thực hiện yêu
cầu tương trợ tư pháp
Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể từ chối thực hiện yêu cầu tương
trợ tư pháp trong hoạt động tố tụng hình sự, nếu thuộc một trong những trường hợp
sau đây:
1. Yêu cầu tương trợ tư pháp không phù hợp với
các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia
nhập và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
2. Việc thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp gây
phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia hoặc lợi ích quan trọng khác của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Chương XXXVII
DẪN ĐỘ VÀ CHUYỂN GIAO HỒ
SƠ, TÀI LIỆU, VẬT CHỨNG CỦA VỤ ÁN
Điều 343. Dẫn độ để truy cứu
trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án
Căn cứ vào các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập hoặc theo nguyên tắc có đi có
lại, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có thể:
1. yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tương ứng của
nước ngoài dẫn độ một người có hành vi phạm tội hoặc bị kết án hình sự mà bản
án đã có hiệu lực pháp luật cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để truy
cứu trách nhiệm hình sự hoặc để chấp hành hình phạt;
2. Thực hiện việc dẫn độ người nước ngoài có
hành vi phạm tội hoặc bị kết án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp luật đang
ở trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho quốc gia yêu cầu để
truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc để chấp hành hình phạt.
Điều 344. Từ chối dẫn độ
1. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ chối dẫn độ, nếu thuộc một trong những
trường hợp sau đây:
a) Người bị yêu cầu dẫn độ là công dân nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Theo quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thì người bị yêu cầu dẫn độ không thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc chấp hành hình phạt do đã hết thời hiệu hoặc vì những lý do
hợp pháp khác;
c) Người bị yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm
hình sự đã bị Toà án nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam kết tội bằng bản
án đã có hiệu lực pháp luật về hành vi phạm tội được nêu trong yêu cầu dẫn độ
hoặc vụ án đã bị đình chỉ theo quy định của Bộ luật này;
d) Người bị yêu cầu dẫn độ là người đang cư trú ở
Việt Nam vì lý do có khả năng bị truy bức ở quốc gia yêu cầu dẫn độ do có sự
phân biệt về chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, dân tộc, thành phần xã hội hoặc
quan điểm chính trị.
2. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể từ chối dẫn độ, nếu thuộc một
trong những trường hợp sau đây:
a) Theo pháp luật hình sự của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam thì hành vi mà người bị yêu cầu dẫn độ thực hiện không phải
là tội phạm;
b) Người bị yêu cầu dẫn độ đang bị truy cứu
trách nhiệm hình sự ở Việt Nam về hành vi được nêu trong yêu cầu dẫn độ.
3. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ chối dẫn độ theo quy định tại khoản
1 và khoản 2 Điều này có trách nhiệm thông báo cho cơ quan có thẩm quyền tương ứng
của nước ngoài đã gửi yêu cầu dẫn độ biết.
Điều 345. Việc chuyển giao hồ
sơ, vật chứng của vụ án
1. Đối với vụ án có người nước ngoài phạm tội
trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nếu việc tiến hành tố tụng
không thể thực hiện được vì người đó đã ra nước ngoài thì cơ quan có thẩm quyền
tố tụng đang thụ lý vụ án có thể chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát nhân dân
tối cao để làm thủ tục chuyển giao cho cơ quan có thẩm quyền tương ứng của nước
ngoài.
2. Khi chuyển giao hồ sơ vụ án cho cơ quan có thẩm
quyền tương ứng của nước ngoài, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có thể chuyển giao cả vật chứng của vụ án.
Điều 346. Việc giao nhận, chuyển
giao tài liệu, đồ vật, tiền liên quan đến vụ án
1. Việc giao nhận tài liệu liên quan đến vụ án
được tiến hành theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập và theo quy định của Bộ luật này.
2. Việc chuyển giao đồ vật, tiền liên quan đến vụ
án ra ngoài lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được thực hiện
theo quy định của pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bộ luật này đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm
2003.
|
CHỦ TỊCH QUỐC
HỘI
Nguyễn Văn An
|