CHÚ THÍCH 3: Vật liệu cho phân tích sàng cốt liệu thô có thể được phân
chia bằng một trong hai phương pháp thay thế, trình bày chi tiết trong 5.1.2 (đối
với sàng 2,00 mm) hoặc 5.1.3 (đối với sàng 4,75 mm). Khi chỉ có một lượng nhỏ vật liệu
sót lại trên sàng 4,75 mm hoặc 2,00 mm, thì một khối lượng mẫu đáng kể sẽ được
sử dụng (yêu cầu) nhằm cung cấp khối lượng tối thiểu theo quy định trong Bảng
1; do đó, việc tuân thủ các yêu cầu về khối lượng tối thiểu trong Bảng
1 là không cần thiết nếu mẫu vật liệu không được sử dụng trong lớp móng trên hoặc
lớp móng dưới, lựa chọn đất đắp hoặc vật liệu khác có yêu cầu cốt liệu thô.
5.1.2 Phương pháp thay thế sử dụng sàng 2,00 mm - Sử
dụng sàng 2,00 mm phân chia mẫu đã sấy khô thành hai phần (phần lọt sàng và phần
còn sót lại trên sàng). Phần mẫu còn sót lại trên sàng tiếp tục được nghiền bằng
thiết bị, dụng cụ nghiền cho đến khi phá vỡ liên kết giữa các hạt đất thành các
hạt nhỏ riêng biệt. Tiếp tục dùng sàng 2,00 mm để phân chia phần sau khi nghiền
này thành hai phần (phần lọt sàng và phần còn sót lại trên sàng). Lặp lại quy
trình cho đến khi các hạt đất được phân chia hoàn toàn (tức là không thể nghiền
phần vật liệu sót lại trên sàng 2,00 mm được nữa). Khi đó, loại bỏ vật liệu sót
lại trên sàng, giữ lại vật liệu lọt qua sàng để phục vụ cho các thí
nghiệm mong muốn.
5.1.3 Phương
pháp thay thế sử dụng sàng 4,75 mm và 2,00 mm - Sử dụng sàng 4,75 mm phân chia
mẫu đất đã sấy khô thành hai phần (phần lọt sàng và phần còn sót lại trên
sàng). Phần mẫu còn sót lại trên sàng 4,75 mm tiếp tục được nghiền bằng thiết bị,
dụng cụ nghiền cho đến khi phá vỡ liên kết giữa các hạt đất thành các hạt nhỏ
riêng biệt, sau đó lại tiếp tục phân chia các hạt sau khi nghiền này trên sàng
4,75 mm. Các phần lọt qua sàng 4,75 mm thu được trước đó sẽ được trộn kỹ lưỡng
với nhau và bằng cách sử dụng dụng cụ lấy mẫu chuyên dụng hoặc bằng cách chia
tách mẫu và phương pháp chia tư, sẽ thu được một phần mẫu đại diện thích hợp
cho các thí nghiệm mong muốn. Tiếp tục phân chia phần đại diện này trên sàng
2,00 mm và cách thức tiến hành tương tự như 5.1.2. Khối lượng của vật liệu từ
phần tách ra này sót lại trên sàng 2,00 mm sẽ
được ghi chép lại để sử dụng
trong tính toán phân tích sàng cốt liệu thô sau này.
5.1.4 Khối lượng riêng (AASHTO T 100) - Thí nghiệm
xác định khối lượng riêng được thực hiện đồng thời cùng với phân tích thành phần
hạt của đất (AASHTO T 88). Khối lượng vật liệu (khô hoàn toàn) lọt qua sàng
2,00 mm yêu cầu tối thiểu bằng 25 g khi sử dụng bình định mức và tối thiểu bằng
10 g khi sử dụng bình có nút đậy kín.
5.1.5 Các thí nghiệm phân tích (xác định) các tính chất vật
lý - Tổng khối lượng vật liệu lọt sàng 0,425 mm yêu cầu tối thiểu bằng 300 g,
được chia thành các phần có khối lượng xấp xỉ trong bảng sau:
Bảng 2 - Lượng mẫu cho thí
nghiệm phân tích (xác định) các tính chất vật lý
Thí nghiệm
Khối lượng xấp xỉ (g)
Giới hạn chảy (AASHTO T 89)
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
Giới hạn dẻo (AASHTO T 90)
20
Hệ số co ngót
30
Độ ẩm tự nhiên
50
Thí nghiệm kiểm tra và tham chiếu
100
6 Phương pháp A
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
6.1.1 Mẫu đất được lấy từ hiện trường phải được làm
phơi khô, trong tủ sấy có nhiệt độ không quá 60 °C hoặc bằng thiết bị khác mà
không làm tăng nhiệt độ của mẫu quá 60 °C. Các mẫu đất này phải được nghiền
trong cối bằng chày bọc cao su hoặc thiết bị cơ khí thích hợp sao cho tránh làm
thay đổi kích thước tự nhiên của các hạt riêng biệt. Sau đó, sử dụng phương
pháp chia tư hoặc dụng cụ lấy mẫu chuyên dụng để lấy được một mẫu thí nghiệm đại
diện với khối lượng cần thiết để thực hiện các thí nghiệm mong muốn.
6.1.2 Phần
mẫu được làm khô trong không khí được lựa chọn cho mục đích phân tích các chỉ
tiêu cơ học và các thí nghiệm phân tích (xác định) các tính chất vật lý phải được
cân và khối lượng được ghi lại là khối lượng của tổng số mẫu chưa được hiệu chỉnh
về độ ẩm hút nước. Sau đó, mẫu thí nghiệm phải được phân chia thành hai phần
(phần lọt sàng 0,425 mm và phần trên sàng 0,425 mm) bằng sàng 0,425 mm. Vật liệu
lọt qua sàng 0,425 mm phải được dự trữ cho việc phối trộn lại tiếp theo với vật
liệu bổ sung mô tả trong 6.1.3 đến 6.1.7.
6.1.3 Vật liệu sót lại trên sàng 0,425 mm sẽ được đổ
vào ngâm trong một khay/ chậu ngập nước từ (2-24) h cho đến khi liên kết đất với
các hạt sỏi sạn trở nên mềm yếu hoặc tách rời nhau.
6.1.4 Sau khi ngâm, vật liệu ngâm trong nước sẽ được
lọc, rửa trên sàng cỡ 0,425 mm như sau:
Lấy một sàng trống 0,425 mm đặt trên một cái khay/ chậu khác. Rót vật
liệu ngâm trong nước vào sàng trống này. Bổ sung một lượng nước vừa đủ để mực nước
trong khay/ chậu ngập phía trên mặt sàng khoảng 13 mm. Phần vật liệu ngâm trong
nước, không vượt quá 0,45 kg, sẽ được rót bằng tay đổ vào khay/ chậu
có đặt sàng 0,425 mm, đồng thời khuấy tay, chao sàng lên xuống nhịp nhàng để lọc
rửa. Nếu vật liệu sót lại trên sàng 0,425 mm chứa các cục chưa bị làm vỡ vụn hoặc
tán nhỏ, thì có thể dùng tay bóp vụn hoặc bóp nát sao cho
thu được các hạt lọt qua sàng 0,425 mm, các cục đó phải được làm tan ra và rửa
qua sàng đang đựng trong khay. Sau khi tất cả các cục đã được làm tan ra, sàng
phải được giữ ở vị trí bên trên đất và nước trong khay và vật liệu sót lại trên
sàng sẽ được rửa bằng một lượng nhỏ nước sạch. Vật liệu đã được rửa sạch sót lại
trên sàng 0,425 mm phải được chuyển sang một khay sạch khác.
6.1.5 Tiếp
tục lấy vật liệu ngâm, có khối lượng không quá 0,45 kg phải được đổ lên trên
sàng 0,425 mm và được rửa như trình bày trong 6.1.4. Quy trình này
phải được lặp lại cho đến khi rửa sạch tất cả các mẫu ngâm.
6.1.6 Vật liệu sót lại trên sàng 0,425 mm phải được
làm khô và sàng khô bằng sàng 0,425 mm. Phần vật liệu lọt qua sàng 0,425 mm sẽ
được thêm vào vật liệu lọt qua sàng 0,425 mm thu được trong 6.1.2. Vật liệu sót
lại trên sàng 0,425 mm phải được dự trữ để sử dụng cho phân tích các chỉ tiêu
cơ học của vật liệu thô.
6.1.7 Sau khi tất cả các vật liệu ngâm đã được rửa sạch,
khay chứa nước rửa sẽ được để sang một bên và không bị làm xáo trộn trong khoảng
thời gian vài giờ cho đến khi tất cả các hạt đất đã lắng xuống đáy khay và nước
ở trên đất trở nên sạch (Chú thích 4). Sau đó gạn hoặc hút nước sạch ra khỏi khay càng nhiều
càng tốt. Đất còn lại trong khay phải được làm khô ở nhiệt độ không quá 60 °C.
Đất khô phải được nghiền trong cối bằng chày bọc cao su hoặc thiết bị cơ khí
thích hợp và phối trộn với vật liệu lọt qua sàng 0,425 mm thu được trong 6.1.2
và 6.1.6.
CHÚ THÍCH 4: Trong một số trường hợp, nước rửa sẽ không sạch trong một
khoảng thời gian nhất định (thích hợp), trong trường hợp đó, toàn bộ thể tích
phải được làm bay hơi.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
6.2 Chuẩn bị mẫu đất khô cho các thí nghiệm phân
tích cơ học và xác định các đặc tính của đất
6.2.1 Các
phần lọt qua sàng 0,425 mm thu được trình bày trong 6.1.2, 6.1.6 và 6.1.7 phải
được phối trộn lại với nhau kỹ lưỡng. Đối với đất bụi và đất sét phải chọn ra một
phần có khối lượng xấp xỉ bằng 60 g để phân tích các chỉ tiêu cơ học. Phần vật
liệu còn lại lọt qua sàng 0,425 mm sẽ được sử dụng để xác định các đặc tính của
đất.
7 Phương pháp B
7.1 Trình tự chuẩn bị mẫu ướt
7.1.1 Để
thu được các kết quả phân tích các chỉ tiêu cơ học nhanh dựa vào khối lượng khô
của vật liệu ban đầu, chọn và cân một phần đại diện của vật liệu để xác định độ
ẩm bằng tủ sấy. Mẫu được sấy khô đến nhiệt độ (110 ± 5) °C để xác định độ ẩm.
7.1.1.1 Chọn ra một phần mẫu đại diện để đánh giá, phần
này gồm đủ lượng hạt lọt qua sàng 0,425 mm để thực hiện các thí nghiệm cần thiết
cho việc xác định các hằng số của đất. Ngâm phần đã chọn này của mẫu ẩm trong
nước cho đến khi liên kết giữa các hạt trở lên mềm yếu (Xem Chú thích 5). Các mẫu
chỉ chứa các hạt lọt qua sàng 0,425 mm có thể được sử dụng trong các thí nghiệm
xác định các hằng số của đất mà không cần rửa trước trên sàng 0,425 mm.
CHÚ THÍCH 5: Ở một số khu vực, nếu sử dụng nước máy ngâm và rửa mẫu,
các ion dương của muối có trong nước máy có thể trao đổi với
các ion dương trong đất và làm thay đổi đáng kể các đặc tính của đất. Nếu không
biết trong nước máy không chứa ion dương muối, nên sử dụng nước cất hoặc nước
khử khoáng. Công tác ngâm rửa sẽ loại bỏ các muối hòa tan có trong đất. Khi có
các muối hòa tan trong đất, nước rửa phải được giữ lại và được làm bay hơi, và
muối sẽ được thu hồi trở lại mẫu đất.
7.1.2 Sau
khi ngâm, rửa vật liệu trên sàng 0,425 mm theo cách sau: Sàng 0.425 mm phải được
đặt dưới cùng trong lòng khay và rót chất lỏng trong mẫu ngâm qua sàng (Xem Chú
thích 6). Phải bổ sung đủ lượng nước sao cho mực nước trong khay chứa cao hơn
lưới sàng khoảng 13 mm. Từng phần vật liệu đã ngâm được đổ vào sàng, độ lớn từng
phần vừa đủ đảm bảo việc rửa vật liệu dễ dàng, khuấy từng phần nhỏ bằng ngón
tay đồng thời lắc sàng lên và xuống.
Bóp vụn hoặc nghiền nhỏ bất kỳ cục nào chưa được làm bở vụn bằng các
ngón tay. Nâng sàng lên trên mặt nước trong khay chứa và hoàn tất thao tác rửa
bằng cách sử dụng một lượng nhỏ nước sạch. Trước khi thực hiện công tác rửa phần
vật liệu đã ngâm khác tiếp theo trên sàng, phải loại bỏ vật liệu đã rửa sót lại
trên sàng.
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
7.1.3 Đặt khay đựng nước rửa thải sang một bên trong
khoảng thời gian một vài giờ hoặc cho đến khi nước phía trên các hạt lắng ở đáy
khay trở lên sạch và trong. Chắt phần nước trong, dùng ống pipet hoặc ống
siphon hút nước trong ra ngoài càng nhiều càng tốt (Xem Chú thích 4).
7.1.4 Ngoài ra, sau khi tất cả các vật liệu ngâm đã
được rửa sạch, lọc bỏ hầu hết nước trong vật liệu bằng cách lọc nước rửa trên một
hoặc nhiều phễu Buchner được trang bị giấy lọc hoặc bằng cách sử dụng dụng cụ lọc
dạng nến. Lọc đất ẩm khỏi giấy lọc hoặc dụng cụ lọc dạng nến, và phối trộn với
cặn lắng sót lại trong khay thu được ở 7.1.3.
7.1.5 Giảm bớt độ ẩm của vật liệu lọt qua sàng
0,425 mm cho đến khí khối vật liệu đạt độ sệt giống như bột bả matít (tương
đương có số lần đập từ 30 đến 35 trong thí nghiệm xác định giới hạn chảy) nhưng
không bao giờ thấp hơn độ ẩm tự nhiên. Việc làm giảm độ ẩm có thể được thực hiện
bằng cách cho mẫu tiếp xúc với không khí ở nhiệt độ phòng thông thường, bằng
cách sấy trong tủ sấy ở nhiệt độ không quá 110 °C, bằng cách đun sôi, bằng
cách lọc trên phễu Buchner hoặc bằng cách sử dụng dụng cụ lọc dạng nến. Trong
quá trình bay hơi và làm mát, thường xuyên khuấy trộn mẫu vừa đủ để ngăn ngừa
hiện tượng khô quá mức tại các mép và phần đỉnh mẫu đất thuộc phạm vi bề mặt
Làm mát các mẫu đã gia nhiệt đến nhiệt độ phòng thông thường trước khi thí nghiệm.
Đối với mẫu đất có chứa muối hòa tan, sử dụng phương pháp khử nước sẽ không loại
bỏ được muối hòa tan khỏi mẫu thử. Bảo quản mẫu đã chuẩn bị trong dụng cụ chứa
kín hơi ẩm, không làm khô thêm nữa cho đến khi tất cả các thí nghiệm cần thiết
được thực hiện.
MỤC LỤC
1 Phạm vi áp dụng
2 Tài liệu viện dẫn
3 Thuật ngữ, định nghĩa
4 Thiết bị và dụng cụ
...
...
...
Bạn phải
đăng nhập hoặc
đăng ký Thành Viên
TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.
Mọi chi tiết xin liên hệ:
ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66
6 Phương pháp A
7 Phương pháp B