Bản án về xin ly hôn số 90/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA HƯNG, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 90/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ XIN LY HÔN

Ngày 22 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nghĩa Hưng mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 34/2022/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2022 về tranh chấp hôn nhân và gia đình theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 01 tháng 6 năm 2022 giữa:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị M, sinh năm 1994; Địa chỉ: Xóm x, xã P, huyện N, tỉnh Nam Định.

* Bị đơn: Anh Trần Văn H, sinh năm 1989; Địa chỉ: Xóm x, xã P, huyện N, tỉnh Nam Định.

Tại phiên toà có mặt chị M, vắng mặt anh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện cũng như lời khai của chị M tại các buổi làm việc và tại phiên toà thể hiện: Chị và anh Trần Văn H kết hôn với nhau tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 24/12/2012 tại Uỷ ban nhân dân xã P, huyện N. Sau khi kết hôn vợ chồng cùng sống tại nhà bố mẹ chồng tại xã P, huyện N, anh H thường xuyên đi làm ăn xa. Trong quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H ham chơi, không chịu khó làm ăn, không lo cho gia đình và có quan hệ với người phụ nữ khác. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể hoà giải. Từ tháng 12/2019, chị M đã bỏ về nH bố mẹ đẻ ở xã H sinh sống. Từ đó đến nay hai vợ chồng sống ly thân, không còn liên lạc với nhau. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị M xin ly hôn anh H.

Về con chung: Chị M xác định vợ chồng có hai con chung là Trần Hoàng Nam, sinh ngày 01/3/2014 và Trần Gia Hn, sinh ngày 18/10/2016. Hiện cháu Trần Hoàng N đang ở với anh H, cháu Trần Gia Hn đang ở với chị M. Sau khi ly hôn, chị M xin trực tiếp nuôi cháu Trần Gia Hn, anh H trực tiếp nuôi cháu Trần Hoàng N; chị M, anh H không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị M không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại phiên toà hôm nay anh Trần Văn H vắng mặt nhưng có lời khai xác định: Anh đồng ý với ý kiến của chị M về quá trình kết hôn, sinh sống. Anh H cho rằng vợ chồng mâu thuẫn từ năm 2018 do anh H đi làm ăn xa nhiều, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể hoà giải. Từ tháng 08/2018 đến nay vợ chồng đã sống ly thân, không liên lạc gì với nhau. Nay anh H cũng xác định tình cảm vợ chồng không còn nên cũng đồng ý ly hôn với chị M. Về con chung: Anh H cũng xác định vợ chồng có hai con chung là Trần Hoàng N, sinh ngày 01/3/2014 và Trần Gia Hn, sinh ngày 18/10/2016. Hiện cháu Trần Hoàng N đang ở với anh H, cháu Trần Gia Hn đang ở với chị M. Sau khi ly hôn, anh H xin trực tiếp nuôi cháu Trần Hoàng N còn chị M xin trực tiếp nuôi cháu Trần Gia Hn; anh H, chị M không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung: Anh H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát có quan điểm: Từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của pháp luật; Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về việc xét xử sơ thẩm vụ án; đương sự đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Đề nghị áp dụng các Điều 55, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình: chấp nhận đơn khởi kiện của chị M: đề nghị HĐXX xử công nhận thuận tình ly hôn giữa chị M và anh H. Về con chung: Giao cháu Trần Hoàng N, sinh ngày 01/3/2014 cho anh H nuôi dưỡng và cháu Trần Gia Hn, sinh ngày 18/10/2016 cho chị M nuôi dưỡng; anh H, chị M không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung; áp dụng Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự, nghị quyết 326/2016/UBTVQH/14, đề nghị Toà án tuyên án phí chị M phải nộp là 300.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Toà án đã tiến Hành tống đạt các văn bản tố tụng cho các đương sự theo quy định của pháp luật. Đương sự không có ý kiến, khiếu nại gì về Hành vi, quyết định của những người tiến Hành tố tụng. Bị đơn vắng mặt tại phiên toà có lý do nên Toà án tiến Hành mở phiên toà xét xử vụ án theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung: Cuộc hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị M và anh Trần Văn H trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 24/12/2012 tại Uỷ ban nhân dân xã Nghĩa Phú, huyện Nghĩa Hưng là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, chị M, anh H có nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp, anh H thường xuyên đi làm ăn xa, không quan tâm đến gia đình. Vợ chồng đã nhiều lần hoà giải nhưng không tHành. Từ khoảng tháng 08/2018, chị M, anh H đã sống ly thân, không liên lạc gì cho đến nay. Như vậy mâu thuẫn đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, chị M đề nghị Toà án giải quyết ly hôn với anh H là có cơ sở nên chấp nhận yêu cầu của chị M; anh H cũng đồng ý ly hôn với chị M.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị M và anh Trần Văn H có hai con chung là Trần Hoàng N, sinh ngày 01/3/2014 và Trần Gia Hân, sinh ngày 18/10/2016. Hiện cháu Trần Hoàng Nam đang ở với anh H, cháu Trần Gia Hn đang ở với chị M. Sau khi ly hôn, chị M, H đều có ý kiến thống nhất là chị M trực tiếp nuôi cháu Trần Gia Hn, anh H trực tiếp nuôi cháu Trần Hoàng N; chị M, anh H không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung. Do vậy giao cho chị M trực tiếp nuôi cháu Trần Gia Hn, anh H trực tiếp nuôi cháu Trần Hoàng N là phù hợp, đảm bảo sự phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần và theo nguyện vọng của cháu Trần Hoàng N theo Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình; chị M, anh H không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

[4] Về tài sản chung: Chị Nguyễn Thị M và anh Trần Văn H không yêu cầu Toà án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị M phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 55, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Điều 147; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 6; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ quốc hội.

1. Xử thuận tình ly hôn giữa chị Nguyễn Thị M và anh Trần Văn H.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị M trực tiếp nuôi cháu Trần Gia Hn, sinh ngày 18/10/2016 và giao cho anh Trần Văn H trực tiếp nuôi cháu Trần Hoàng N, sinh ngày 01/3/2014. chị M, anh H không phải đóng góp cấp dưỡng nuôi con chung. Cháu N đang ở với anh H, cháu Hn đang ớ với chị M.

Chị M, anh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung; không ai được cản trở, không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị M phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị M đã nộp theo biên lai số 0000657 ngày 25/02/2022 tại Chi cục thi Hành án dân sự huyện Nghĩa Hưng, chị M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai có mặt chị M; vắng mặt anh H. Chị M có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh H có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trong trường hợp bản án được thi Hành theo quy định tại điều 2 Luật thi Hành án dân sự thì người được thi Hành án và người phải thi Hành án có quyền thoả thuận thi Hành án, quyền yêu cầu thi Hành án, tự nguyện thi Hành án hoặc bị cưỡng chế thi Hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi Hành án dân sự; thời hiệu thi Hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi Hành dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về xin ly hôn số 90/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:90/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Hưng - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về